----- Forwarded Message -----
From: Anna Queen Sent: Sunday, March 17, 2013 11:25 PM
Subject: Fw: Lịch Sử chữ Quốc Ngữ.-TÀI LIỆU RẤT QUÝ !
From: Anna Queen Sent: Sunday, March 17, 2013 11:25 PM
Subject: Fw: Lịch Sử chữ Quốc Ngữ.-TÀI LIỆU RẤT QUÝ !
Thân
chào
Anna Queen
PD
Anna Queen
PD
LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ
Người Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ
là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có trước
cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học Việt nam đã có những khám phá và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên
cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục
Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ
trước kỷ Công nguyên (BC).
Bộ chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các
mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc
Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu
giống nhau, những hình con nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép
lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy
dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa.
Trống đồng Đông Sơn tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp
Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt. Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi:
:
"Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm
trận.... " Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi
dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương,
một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện."
Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"
Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, viết bằng chữ Khoa Đẩu.
Chữ Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú.
Tuy nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, luôn khát vọng
độc lập tự do, ông cha ta từ chữ Hán tượng hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử
dụng, nhằm mục đích giữ gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại và bản sắc văn hóa
thuần túy dân tộc Việt.
Nhìn chung Việt Nam vào thời điểm lịch sử cổ, trung đại, vẫn
chưa chính thức có trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người Việt chúng
ta ngày xưa đa số được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt lòng mẹ, trong sinh
hoạt gia đình và thông qua những giao tiếp hàng ngày ngoài xã hội là chính. Ở
giai đoạn này chữ viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên các câu
Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài (1) nhờ có vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương
ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi trong nhân gian và ngày càng phong
phú, súc tích.
Trong quá trình xã hội phát triển, dân tộc Việt Nam ta đã tiếp
xúc giao lưu với nhiều dân tộc khác. Trong tiếp xúc trao đổi thông tin với
nhau, vấn đề học hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần thiết.
Vào thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đã phải nhờ đến các cơ quan
phiên dịch ở Trung Quốc như Hội thông quán, Tứ Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm
vụ phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt Nam. Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng
Hán với một số thứ tiếng khác được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam
Dịch Ngữ (*) là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán với chữ tiếng
Việt.
(*) An Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh
(nhà Minh) đặc trách giao dịch với Việt Nam từng phải triều cống.
Giai đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập quốc, các triều đại
Vua Việt Nam đã mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật.
Tuy nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là
quốc ngữ. Tổ tiên ta luôn tìm cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đã dựa
trên chữ Hán để chế ra chữ Nôm.
Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu” (2) bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể của chữ Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu” (2) bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể của chữ Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Tuy nhiên, chữ Nôm vì được cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi
muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Nho (chữ Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không
phổ thông trong dân chúng, và ít được sử dụng rộng rãi.
Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kim Vân Kiều)
của thi hào Nguyễn Du
(Sách cổ viết chữ Nôm)
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng.
Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt. Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 nguyên bản như sau:
Người có công hoàn
thiện công trình này là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển
Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam, và “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu
tiên xuất bản vào năm 1651.
Từ điển Việt-Bồ-La
Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày (trang đầu)
Hình bìa “Sách Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày”
Link sách DOWN LOAD (Phép
Giảng Giáo Lý Tám Ngày) (Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf)https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
Ðây là sách giáo lý được biên soạn để giúp cho
các cha truyền dậy giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng:
La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên
xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ
Việt. Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes -
Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi
chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song.
Cuốn sách gồm có 319 trang. Sách không chia ra từng chương, mà lại chia
theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo
trình sư phạm.
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes
Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630). Ngài là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học. Nhìn chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi.NGHE & Down load (AUDIO BOOK THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)
Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc
ngữ được hoàn chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:
(Trích đoạn trong sách Lịch
Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu của linh mục Ðỗ Quang Chính, do nhà sách Ra
Khơi xuất bản tại Sài gòn năm 1972).
Giai Ðoạn Sơ Khởi
(1620-1626):
Các nhà truyền giáo Âu
Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. Nhưng mãi sang đến đầu thế
kỷ 17 những hoạt động truyền giáo này mới được ghi lại khá đầy đủ. Khởi đầu,
các nhà truyền giáo đã đến Hội An để giúp đỡ các giáo hữu người Nhật. Hội An
(Hội Phố) thời ấy là một cảng buôn bán sầm uất, với những phố riêng cho người
Nhật và người Hoa.
Theo sách cũ, người Âu
Châu đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục Francisco de Pina, người Bồ Ðào Nha (Portugal)
(3) . Năm 1620, với sự công tác của người bản xứ, các tu sĩ Dòng Tên (Jésuite)
tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ Nôm. Từ năm 1621 trở đi, các
nhà truyền giáo đã bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc những địa danh, tên tộc, và
từ-ngữ Việt trong những bản tường trình cho giáo hội về hoạt động của họ.
Dựa vào những tài-liệu
viết tay còn được lưu trữ, trong giai-đoạn sơ khai của chữ Quốc Ngữ, các chữ
thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ:
- Annam = An Nam
- Unsai = Ông Sãi
- Ungue = Ông Nghè
- Bafu = Bà Phủ
- doij = đói
- scin mocaij = xin
một cái
- Sayc Chiu = Sách chữ
- Tuijciam, Biet = Tôi
chẳng biết
Giai Ðoạn Hai
(1631-1648)
Những tài-liệu viết
tay trong giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho thấy chiều hướng
mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu. Nhiều
chữ được viết như ta hằng thấy ngày nay. Thí dụ như:
· Nghệ An
· Bố Chính
Nhiều chữ nhìn tương
tự nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác
· Thính hoa: Thanh Hóa
· oũ bà phủ: Ông bà Phủ
· hụyen: huyện
· sãy: sãi
Ngoài những bản tường
trình, giai đoạn này còn có ba tài-liệu quan-trọng khác. Một là biên-bản
hội-nghị năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa
tội bằng tiếng Việt Nam (4) . Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh mục
Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim). Ba là cuốn tự-điển
Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa (5) .
Ðến năm 1972, biên bản
cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La Mã (6) . Còn hai cuốn tự-điển
kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao, đã mất
tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân),
từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ chúng ta còn biết đến hai cuốn
tự-điển này là vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản
năm 1651, đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo cuốn
tự-điển của mình.
Giai Ðoạn Ba
(1649-1651):
Giai đoạn này được
đánh dấu bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc Ngữ và việc ấn hành hai cuốn
sách quốc ngữ đầu tiên của Ðắc Lộ (7) . Hai cuốn ấy là:
· Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et
latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab
Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis
Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°
· Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere
Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa
tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de
Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv,
ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4° . (Hết phần trích dẫn)
Toàn Quyền Đông Dương Martial Merlin (Bên phải hình)
Mãi cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1924 (Giai đoạn Pháp thuộc), toàn
quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) đã ký quyết định chính thức cho dạy
chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học, được phổ biến rộng rãi toàn quốc. Sự ra
đời và truyền bá chữ Quốc ngữ mọi nơi, trong các trường học, đã giúp cho người
Việt Nam, dễ dàng học hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua
sách báo, nâng cao nhận thức, dân trí phát triển cao hơn và nhanh hơn so với
các nước trong vùng.
Cũng nhờ từ đấy, người Việt, tiếng Việt đã thật sự hoàn toàn thoát
được ảnh hưởng chính sách Hán hóa của Trung Hoa đã đô hộ nước ta trong suốt gần
1000 năm.
Học sinh trường Công giáo tỉnh Nam Định
Tinh thần sĩ phu (Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng
những Nho giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ Nho học và thay đổi
chữ viết từ chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đã giúp Việt Nam chấm dứt vĩnh
viễn giai đoạn lệ thuộc chữ Hán và văn hóa Trung Hoa.
Vì đắm chìm lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, nên có người lầm
tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh hùng, liệt nữ
Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa Việt, lịch sử Việt. Các tác giả
chữ Nho xưa thường dùng điển tích về những vua quan, anh hùng, thần thánh,
phong tục, tập quán của Trung Hoa để làm mẫu mực cho người Việt.
Nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn
hóa Trung Hoa, nhiều người mới có cơ hội tìm thấy lại cội nguồn, trở lại bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đấy, nền văn hóa dân tộc càng ngày càng
được đề cao trong nền văn học Quốc ngữ, trong Sử sách giáo khoa: Hai Bà Trưng,
Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung
mới là những anh hùng đích thực, những tấm gương sáng trong lịch sử của người
Việt Nam.
Nhưng bất hạnh thay cho đất nước Việt Nam ngày hôm nay, (Hiểm
Họa Mất Nước) mà mọi người Việt Nam khắp nơi đang phải lên tiếng báo động khi
nhìn thấy cầm quyền cộng sản Việt nam đã và đang đưa dân tộc ta trở về vòng u
tối của lịch sử.
Nhiều lễ hội trang trí với hình thức, màu sắc nặng tính chất Trung Hoa, những phim ảnh Trung Hoa 24/24 giờ tràn ngập trên truyền hình, lập "viện nghiên cứu Khổng Tử", mưu tính để chính thức đưa chương trình tiếng Hoa (Hán ngữ) vào trường phổ thông toàn quốc nhằm mục đích Hán hóa người Việt trong nước hiện nay cùng với nhiều hình thức khác. Song song là việc "Bộ giáo dục" cho xuất bản, in ấn trên "Sách Giáo Khoa Lịch Sử" với những hình ảnh bôi bác, bất kính, miệt thị, xúc phạm các bậc tiền nhân,tổ tiên của dân tộc Việt. Và còn nhiều chuyện đã xảy xa mới đây trong chủ trương Hán hóa, mà những ai đang quan tâm đến vận mệnh đất nước đều biết rõ.
Nhiều lễ hội trang trí với hình thức, màu sắc nặng tính chất Trung Hoa, những phim ảnh Trung Hoa 24/24 giờ tràn ngập trên truyền hình, lập "viện nghiên cứu Khổng Tử", mưu tính để chính thức đưa chương trình tiếng Hoa (Hán ngữ) vào trường phổ thông toàn quốc nhằm mục đích Hán hóa người Việt trong nước hiện nay cùng với nhiều hình thức khác. Song song là việc "Bộ giáo dục" cho xuất bản, in ấn trên "Sách Giáo Khoa Lịch Sử" với những hình ảnh bôi bác, bất kính, miệt thị, xúc phạm các bậc tiền nhân,tổ tiên của dân tộc Việt. Và còn nhiều chuyện đã xảy xa mới đây trong chủ trương Hán hóa, mà những ai đang quan tâm đến vận mệnh đất nước đều biết rõ.
http://laodong.com.vn/Van-hoa/Hai-Ba-Trung-ma-nhu-vay-sao/30916.bld
Lễ Gọi hồn Mã Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
Lễ Gọi hồn Mã Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
Hai Bà Trưng dâng rượu chuộc tội với Mã Viện
(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt nam biểu diễn tại Quảng
Tây, Trung quốc)
Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
Trường Trung học Adran
(Collège d'Adran) (3) Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở
ở Sài gòn từ năm 1861 - 1887.
Trường ADRAN Sài Gòn,
đến năm 1954 được chia thành 2 Trường Trung Học : Trung học Võ Trường Toản và Trung
học Trưng Vương.
Hình một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.
Chấm dứt thời kỳ của nền giáo dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối
học từ chương.
Hình Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.
Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
Giấy Khai Sinh năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc
ngữ và Pháp)
Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn,
ngày 15/4/1865.
Trương Vĩnh Ký - Pétrus Ký (1837-1898)
Khi nói đến chữ Quốc
ngữ, và Báo Chí Việt Nam thì cũng không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh
Ký, ông là người đầu tiên sáng lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam,
ông là Tổng biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên:
Ông Pétrus - Trương
Vĩnh Ký đã viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn
như sau:
“…Thầy
Ký dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ
Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng
năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn
chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già
đời mà còn có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học
đặng chữ Quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một
đôi tháng thì thuộc hết…”
Ông Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo
dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên bác,
am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây,
nên ông được: - Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.- Được nêu tên trong Bách
khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/archives/pages/recherche.aspx?keyword=Truong%20Vinh%20Ky,
-
Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.- Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4) Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...Nhưng ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của ông đã bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch "Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy, Phản Động", trường trung học Trương Vĩnh Ký bị đổi tên là Lê Hồng Phong, và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà - Sài Gòn bị cộng sản phá hủy.
Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.- Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4) Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...Nhưng ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của ông đã bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch "Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy, Phản Động", trường trung học Trương Vĩnh Ký bị đổi tên là Lê Hồng Phong, và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà - Sài Gòn bị cộng sản phá hủy.
Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh Nhà Thờ Đức
Bà trước 1975.
Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của
ông được đem ra triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật
Tp .
Các nhà khoa bảng, trí
thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc
Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong
trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc,
kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí,
với lý do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán).
Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:“…
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:“…
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
Các sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
Bài mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.
(Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không
có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất
nước này, nhưng đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi chữ
nào...)
Chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp
dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết trong đời sống, theo
dõi sát các tin tức thời sự, các chuyển biến thời cuộc chính trị trong nước và
thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều đảng phái chống Pháp được
thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng
chữ Quốc ngữ.
Nền văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện
một thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường
Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với
10 năm sáng tác và hoạt động báo chí, khai sinh nên dòng văn học lãng mạn Việt
Nam. Nổi trôi trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc đất
nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã cống hiến nhiều vào sự phát
triển Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Toàn bộ những tác
phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và được đưa vào trong giáo
trình giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền Nam sau 1954 mãi cho tới
1975.
Lớp học Mẫu giáo trong giờ Tập Viết, giáo dục miền Nam trước
1975
Trước năm 1975, ở miền
Nam hầu như không có tranh cãi gì nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một
vài tranh cãi nhỏ về chữ I và Y , Lí do hay Lý do, quý vị hay quí vị …) hoặc có
G hay không có G (sáng lạng hay xán lạn). Học sinh miền Nam khi học lên đến lớp
5 (Tiểu học), lớp 6 (Trung học) mà còn viết sai lỗi chính tả là một điều không
thể chấp nhận được.
Nhưng từ khi Việt cộng
cưỡng chiếm được miền Nam, thì Tiếng Việt, Chữ Việt đã bị Việt cộng thay
đổi rất nhiều, và đôi lúc trở nên thứ ngôn ngữ quái thai. Thực ra thì chữ Việt
đã được thay đổi từ lâu, ngay từ 1945 khi cộng sản còn ẩn núp dưới hai chữ Việt
Minh đã dùng bạo lực,súng đạn để cưỡng đoạt, cướp đoạt chính quyền hợp pháp của
chính phủ Trần Trọng Kim.
Không phải trong chế
độ cộng sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người
này lại chẳng có quyền hạn gì, trong khi đó thì hầu hết bọn lãnh đạo lại ngu
dốt, độc tài, ngoan cố, bạo lực nên chúng muốn nói ngang nói ngược, người dân
ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại gì mà lên tiếng, phê phán hay cải sửa để bị
chụp mũ là phản động và bị bỏ tù cải tạo, mang hoạ vào thân.
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
Nhành Dẻ (Hình trích từ Sách
Giáo Khoa)
(Cấm Lái Xe ......Cài Quai)
Đèn Đỏ Được Đi Thẳng !!! ???
(XE THÔ SƠ)
(... NẤU BÁNH CHƯNG , GIÃ BÁNH DÀY )
(Làng Văn Hóa Xóm ... ! ! )
(Thường Xẩy ra tai nạn)
(Xử Lý...)
(LÃNG PHÍ)
(BÁN HÀNG RONG...)
(Thích Quảng Đức)
(Nóng Lòng chờ hỗ trợ)
(Sông Sâu Chớ Lội)
(Tấm Gương...)
HCM chưa bao giờ là Danh nhân Văn Hóa Thế Giới
như VC tuyên truyền
Thay vì in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, thì VC in sai là DOANH NHÂN.
Thay vì in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, thì VC in sai là DOANH NHÂN.
Tóm lại, ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) là phương cách để con
người giao tiếp, thông tin với nhau, hoặc diễn đạt tư tưởng của mình cho người
khác biết. Ngôn ngữ cũng là một phần của văn hoá, là linh hồn của một dân tộc.
Trải qua thời gian và không gian, ngôn ngữ không ít, nhiều đã phải thay đổi để
cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hoá của xã hội.
Những tác phẩm văn học, thơ ca, những bài hát, tranh tượng, hình ảnh nghệ thuật, của miền Nam trước 1975
Những tác phẩm văn học, thơ ca, những bài hát, tranh tượng, hình ảnh nghệ thuật, của miền Nam trước 1975
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching