Thiền định là kéo
dài ra mỗi phút giây của hiện tại để hưởng được sự an
nhiên tự tại giữa những phong ba bão táp của cuộc đời .
1) Sự tương quan giữa thân và tâm
Thế kỷ thứ 17, René Descartes, nhà toán học và
triết học người Pháp, khẳng định thuyết nhị nguyên, tách rời thế giới tâm
linh và thế giới vật chất, (thân - tâm cách biệt) theo ông, tâm = tư tưởng,
và thân = cơ thể, là hai cái thực thể không làm cùng một chất liệu. Này
nhé: nếu bạn cầm dao cắt vào da thịt, máu sẽ tuôn trào, nhưng nếu bạn đưa
bộ óc lên bàn mổ, thì ý tưởng không chảy ra theo vết cắt … vì vậy những gì
xảy ra trong tư tưởng hoàn toàn biệt lập với những gì xảy ra trong cơ thể,
nói cách khác đó là hai phần tử riêng biệt, không ảnh hưởng gì đến nhau.
Nếu như Descartes còn sống đến ngày nay thì hẳn là ông đã thấy mình thật sự
sai lầm …Tư tưởng và cơ thể con người là 2 bộ phận liên quan mật thiết,
những tình cảm yêu ghét, giận hờn không thể cân đo đong đếm đó có thể dẫn
đến những căn bịnh rất thực tế như nghẽn tim, loét bao tử, hay ngược lại
những căn bịnh hiểm nghèo mà bác sĩ tưởng chừng phải bó tay bỗng nhiên
thuyên giảm một cách kỳ diệu sau những cuộc hành hương. Và nữa, sức mạnh
của thiền định – Meditation – là một sự thật không thể chối cãi. Sự kiện
những vị thiền sư Tây Tạng ngồi thiền trong tuyết lạnh và sử dụng Hoả thân
để làm nóng lớp chăn phủ trên người đã làm nao núng giới khoa học gia Tây
phương.
Có một sự giải thích khoa học nào không cho những sự kiện
tưởng như thuộc về một thế giới huyền bí của tâm linh đó? Hay chúng ta đành
dễ dãi bằng lòng với cách xếp hạng chúng vào mục… Khoa học huyền bí, và
phải kêu gọi đến… lòng tin (faith) để mà …gật gù rằng: đó là chuyện
huyền bí.
Trước khi vận dụng đến “khả năng tin tưởng“ của tâm linh, chúng ta hãy thử
dùng con mắt khoa học để khảo sát về hiện tượng tương quan giữa Cơ thể
(Body) và Ý tưởng (Mind) qua các chứng bịnh. (Trong phạm vi bài này chỉ xin
bàn tới sự liên quan giữa Stress, các căn bịnh gây ra bởi Stress và ứng
dụng của Thiền – Meditation – trong đời sống hàng ngày).
2) Sự liên quan giữa Stress và Bịnh:
Tất cả chúng ta đều biết Stress gây ra rất
nhiều bịnh. Cái danh mục của những căn bịnh thời đại đó càng ngày càng dài
ra tưởng như không bao giờ hết. Cái Stress cao độ (intense) và kéo dài
(prolonged) làm yếu đi khả năng đề kháng của cơ thể (immunity defense), làm
mệt mỏi trái tim, làm hư hoại những tế bào của não bộ (memory’s brain
cells), làm tăng mỡ đọng ở eo và mông (một trong những nguy cơ của nghẽn
tim, cơ tim (infarctus) …), ung thư và tiểu đường. Stress cũng dự phần lớn
vào những bịnh thoái hoá như thoái hóa khớp xương), những bịnh tâm thần –
trầm cảm, và góp phần làm cho các tế bào mau già. Các cơ cấu giữa Stress và
Disease chỉ mới được hiểu khá tường tận từ khoảng đầu thập niên này (vào
khoảng năm 1990, những bài học về Stress còn nằm trong phần Tâm thần mà
không phải là phần Diagnosis – bịnh lâm sàng)
3) Stress là gì?
Trước hết ta hãy thử lược sơ qua, để hiểu rõ hơn Stress là
gì? Stress là một trong những khả năng sinh tồn của loài người. Nói khác
đi, Stress là một phản ứng tự vệ của cơ thể trước các nguy cơ. Stress là
một phản xạ tự nhiên giúp con người đối phó với những bất trắc từ bên ngoài
tác động. Khi gặp nguy hiểm – đối đầu với con sư tử chẳng hạn – cơ thể con
người cần phải nhanh chóng sẵn sàng để “đương đầu“ hay “chạy trốn“ (fight
or flight reponse).
Khi não bộ đánh hơi được một sự nguy hiểm,
một tín hiệu được báo ngay cho:
A. Adrenal glands (nằm trên chóp thận) để tiết ra 2 loại hormones:
- Adrenaline (epinephrine) và
- Glucocorticoids & cortisol.
B. Các tế bào thần kinh vùng Hypothalamus
để tiết ra chất:
- Nor-epinephrine
Các loại hormones này là những chất hóa học cực mạnh, có tác dụng làm cho :
**
- Các giác quan nhạy bén hơn, các cơ bắp (muscle) săn chắc lên, giảm thiểu
khả năng tiêu hoá (tác dụng của nor–epinephirine)
- Tim đập nhanh hơn, phổi hô hấp nhanh hơn, chuẩn bị đưa oxygen tới các tế
bào (tác dụng của epinephrine)
- Độ đường tăng trong máu để cung cấp nhiệt lượng cần thiết (cortisol ).
Nói tóm lại cơ thể chúng ta đang ở trong tư thế sẵn sàng tác chiến hay
…chạy trốn. Một khi Stress đã qua đi, (như trong ví dụ này, con sư tử đã đi
…chỗ khác chơi) thì các hormones trở về trạng thái cũ.
Thế nhưng trong xã hội ngày nay, Stress
biến đổi hình thức, nó không còn đơn thuần là một con sư tử, nanh dài móng
nhọn, mà nó thiên biến vạn hóa ra hàng triệu tình huống khác: một ông chủ
khó tánh, một ông chồng (hay bà vợ) ưa cằn nhằn, một cuộc tình sóng gió, 3
tiếng đồng hồ kẹt xe trên xa lộ, 50 cm tuyết sáng thứ hai v.v…Cái phản ứng
“đánh“ hay “chạy“ (fight or flight) của cơ thể vẫn không thay đỗi nhưng cái
Stress ngày nay đã khác với cái stress ngày xưa. Và không phải trong tình
huống nào mình cũng có thể … Đánh hay Chạy được, mà phần nhiều là phải …
chịu trận !!!! Vì vậy cơ thể con người gần như luôn luôn đầy ắp những thứ
hormones này. Chính sự hiện diện lâu dài, ngày này qua ngày khác, và ở nồng
độ cao (high concentration) của các stress hormones mà tạo ra các nguy cơ
tác hại cho cơ thể:
1. Tổn thương các mạch máu, đưa đến các bịnh về tim mạch
(heart disease).
2. Giảm khả năng đề kháng của cơ thể (immunity systeme), đưa đến ung thư,
bịnh nhiễm trùng (infectious disease)....
3. Mất calcium trong xương, gây ra osteoporosis ở phụ nữ lúc mãn king
(menopausis).
4. Làm tăng mỡ đọng ở eo và mông - bệnh tin mạch (heart disease).
5. Tiểu đường, mất trí nhớ …
6. Cái danh mục của những tác hại vì Stress còn rất là dài, đó là chưa kể
đến những căn bịnh thần kinh như trầm cảm, parkinson, disease, mất trí nhớ,
tai biến mạch máu não, nội xuất huyết v.v... và v.v…
4) Thiền - Quán sổ tức, và Stress
Theo bác sĩ Andrew Weil (University of Arizona) thì cách điều
hoà hơi thở là cách thức hữu hiệu nhất để chống lại sự âu lo (anxiety) và
Stress, và ngay đối với cả những thể loại nặng nhất của bịnh khủng hoảng
thần kinh (panic disorder) Vì khi bạn chú tâm vào hơi thở, và thở sâu,
chậm, yên lặng và đều đặn thì bạn không thể nào ... stress, hay lo âu được.
Bởi lẽ rất dễ hiểu là cơ thể bạn không thể nào cùng một lúc làm được những
việc trái ngược nhau. Như chúng ta biết, ngược lại với Stress, sự điều hoà
hơi thở sẽ làm cho tim đập chậm, giảm huyết áp, làm an tĩnh hệ thần kinh.
Khi não bộ không nhận được tín hiệu nguy cơ nữa thì cơ thể trở lại với
trạng thái điều hoà, các bộ phận điều tiết những Stress hormone không còn
được kích thích cũng sẽ trở về trạng thái bình thường, và cơ thể bạn không
nằm trong trạng thái chuẩn bị ứng chiến như ta đã thấy ở trên. Và như thế,
bạn vừa.... khóa lại (shut down) những tác hại của Stress.
Hiện nay những bịnh viện lớn như Columbia Medical center ở
New York city, những bịnh nhân trước khi giải phẩu Tim, đều được mời tham
dự những buổi Thiền Meditation. Ở những bịnh nhân có tham gia thiền quán,
người ta nhận thấy ít lo âu trước khi mổ, ít mất máu trong khi mổ và hồi
phục nhanh hơn sau khi mổ.
Điều hòa hơi thở chỉ là một dạng thô thiển nhất của Thiền
quán, cần nói thêm là Thiền không chỉ là sự điều hòa hơi thở nhưng nếu bạn
biết áp dụng vào đời sống hàng ngày thì ít ra bạn cũng ngăn ngừa hay chận
đứng được những tác hại của Stress, tuy bạn chưa đi vào trạng thái Thiền
định nhưng bạn cũng đã kiểm soát được mình qua sự điều tức. Khi kiểm soát
được hơi thở của mình, cơ thể của bạn là của bạn. Có thể bạn chưa đạt được
giải thoát hay Đốn ngộ với sự kiểm soát hơi thở, nhưng ít ra đời sống bạn
cũng sẽ được thoải mái hơn và..... ít bịnh tật hơn !!!
5) Những dấu ấn khoa học về Thiền.
Theo Daniel Goleman, tác giả của Destructive Emotion thì:
“Những cuộc khảo sát trong vòng 30 năm qua đã cho chúng ta thấy Thiền có
tác dụng như một loại thuốc giải độc tuyệt vời (antidote) của Stress. Các
bảc sĩ y khoa hiện nay, càng ngày càng không ngần ngại dùng Thiền như một
phương pháp bổ túc trị liệu cho những căn bệnh mà khoa học tưởng như phải
bó tay như bịnh tim mạch, Aids, Ung thư, các chứng bịnh kéo dài (chronique
).
Thiền cũng được dùng để điều hòa những
chứng bịnh tâm thần như trầm cảm, hiếu động, hay rối loạn (attention
deficit disorders - ADD) và nhất là những căn bịnh liên quan về Stress
(stress related disorders). Thậm chí, một nghiên cứu ở nhà tù Kings county
North Rehabitilitation facility (gần Seattle) cho thấy, những tù nhân gây
bạo lực vì nghiện ngập, khi được tham gia một khóa tu tập về Thiền quán
trong thời gian nằm tù, thì tỷ lệ tái phạm trong vòng hai năm sau khi được
phóng thích giảm xuống còn 56% so với tỷ lệ của những tù nhân không tham
gia khóa tu tập này là 75%.
Soeur Elaines McInnes là một vị nữ tu Thiên
chúa Giáo, và cũng là một Thiền sư Phật giáo. Năm 1980, sau 15 tu học về
thiền quán ở Tokyo, Bà có đuợc danh xưng là Zen Roshi – Thiền sư. Trong
vòng 40 năm, Bà đã đem mùi vị của Thiền Quán rải khắp các nhà tù trên thế
giới. Hạnh nguyện của bà là - qua Thiền quán - đem lại cho những tù nhân,
nhiều lúc là những kẻ sát nhân khét tiếng, sự bình an trong tâm hồn trong
chốn tù đày, sự tự do trong tâm hồn trong 4 bức tường sắt, sự tỉnh thức của
những con người hầu như có lúc không còn nhân tính.
Một tù nhân chính trị của Canada, bị giam ở bago Bantay
prison Philippines, ông Horacio Morales, liên tục bị tra khảo dã man bằng
choc electrique. Thân thể ông cứ 5 phút lai co giật một cách dữ dội. Trong
cái tận cùng của sự khổ đau thân xác đó, ông đã đuợc Soeur Elaines hướng
dẫn thiền quán. Sau này, chính ông đã viết trong hồi ký : “Tôi không
còn bị giam giữ bởi 4 bức tuờng sắt. Qua cánh cửa sổ của nhà giam tôi thấy
mình hòa nhập làm một với thế giới bên ngoài ung dung tự tại”. Ngày
04-12-2001 bà được chính quyền Canada trao tặng giải thưởng cao quí nhất :
Order of Canada.
Qua những điều trên, chúng ta hẵn thấy những ứng dụng của Thiền Quán trên
đời sống hàng ngày là có thực, là không thể chối cãi. Thế nhưng… cái gì đã
thật sự xảy ra trong chúng ta, khi chúng ta ngồi tĩnh tọa, hoàn toàn chú
tâm vào hơi thở, 1 câu nói, 1 hình ảnh hay 1 công án? Nói tóm lại, cái gì
đã thay đổi trong cơ thể (Body) và ý tuởng (brain) của chúng ta? Với những
máy móc hiện đại ngày nay, liệu chúng ta có soi thủng được cái bí mật của
sự Thiền Quán?
6) Những nghiên cứu mới về Thiền
Năm 1967 - tiến sĩ Herbert Benson, giáo sư y khoa ở Harvard,
làm một cuộc khảo sát Điện não đồ trên 36 người ngồi thiền. Ông nhận thấy
cơ thể con người khi ngồi thiền:
- Dùng 17% ít hơn Oxygène.
- Làm giảm nhịp tim mạch 3 nhịp mỗi phút.
- Não bộ sản xuất nhiều hơn làn sóng theta (theta ways) – Giai đoạn cực kỳ
thư giãn truớc khi đi vào giấc ngủ, khi ý tưởng cực kỳ linh họat và sống
động và tuôn chảy như thoát khỏi mọi ràng buộc và suy xét (The ideation
that can take place during the theta state is often free flow and occurs
without censorship or guilt. It is typically a very positive mental state).
Nhiều năm sau, Dr Gregg jacobs – một giáo sư về tâm thần ở
bệnh viện Harvard, cũng làm một cuộc khảo nghiệm tương tự, Ông so sánh điện
não đồ (ECG) của 1 nhóm ngồi thiền và 1 nhóm thực hành thư giãn
(relaxation) bằng cách nghe nhạc và đọc truyện. Ông nhận thấy, ở nhóm người
thực hành Thiền quán:
- Não bộ phát ra nhiều làn sóng theta hơn là nhóm đọc truyện.
- Họat động của phần lobe frontal của não bộ (hình) (chỗ ghi nhận và phân
tách những cảm thụ (sensory information) bị ngừng trệ.
- Cùng lúc hoạt động của lobe parietal (hình) cũng giãm thiểu. Lobe
parietal là phần não bộ nằm gần ngay trên đỉnh đầu, nơi ghi nhận những tín
hiệu về không gian và thời gian) Sự giảm thiểu những họat động của phần não
bộ này cho chúng ta cái cảm giác không bị ràng buộc và hạn chế bởi không
gian và thời gian. Cái cảm giác hòa đồng – at one – với vũ trụ.
Và với những kỹ thuật tân tiến hiện nay, với máy scanner hiện đại có thể
cho chúng ta thấy những hình ảnh rất rõ ràng của não bộ (brain imaging).
Năm 1997, một nhóm Bác sĩ chuyên khoa về óc (neurologist) ở University of
Winconsins (Dr. Richard Davidson) làm một cuộc khám nghiệm não bộ bằng
brain imaging của những thiền sư Phật giáo khi họ đang hành thiền. Những
khám phá này là một buớc tiến vĩ đại trong công cuộc tìm hiểu những bí mật
về thiền quán. Trái với những gì chúng ta tưởng tượng. Những danh từ như
Vắng lặng, Rỗng không, Tĩnh lặng …thường đi đôi với Thiền cho chúng ta cái
cảm tưởng là khi hành thiền, muốn đạt đến trạng thái … không tạp niệm, thì
có lẽ những họat động của não bộ phải được giảm thiểu đến mức tối đa. Nhưng
trái với những gì ta dự đoán, những hình ảnh trong cuộc nghiên cứu của Dr.
Davidson cho chúng ta thấy, khi hành thiền:
- Não bộ ngăn chận những tín hiệu đến phần parietal lobe (Thùy não đỉnh)
- Những họat động của prefontal cortex (phần nằm ngay trước trán) được
chuyển từ bán não phải qua bán não trái.
7) Đây là một khám phá rất lý thú.
Prefrontal cortex là vùng não bộ chuyên cấu tạo, hình thành
những ý tuởng và ngôn ngữ, cùng điều hòa những tình cảm yêu ghét giận hờn
của con nguời. (planning and production of thoughts, language, emotional
expression, and actions). Cũng theo Davidsons, trong The sciences of
emotion, vùng prefrontal cortex chiếm một vị trí quan trọng trong sự điều
tiết (modulation) tình cảm con người. Chúng ta ai cũng biết những người bị
chấn thương sọ não thường có những thay đổi tính tình tùy theo vùng bị chấn
thương. Những người bị chấn thương bên bán não trái, đương nhiên sẽ chịu sự
điều hành của bán cầu phải, thường là những người được gắn kết với loại
người bi quan (negative mood), họ thường bị trầm cảm, hay khóc lóc, lo âu,
chán nãn … [Có thể đây là kết quả quan sát của người ngoài cuộc. Nên đọc
Tuệ giác và sự phục hồi sau tai biến mạch máu não* (My stroke of insight)
của TS Jill Bolte Taylor, nhất là 2 chương 6 và 7, ta sẽ có kết quả
khác về chức năng của não thùy phải - LN] Trái lại những người bị thương
phía bên phải, và chịu sự điều hành của bán cầu trái lại là những người có
tư tưởng lạc quan, hăng hái, nhiệt tình.
Sau khi dùng fMRI (functional magnetic resonance) để phân
loại. Những người với sự hoạt động của vùng não bộ này thiên về phía bán
cầu phải (right prefrontal oriented) thường là những người có tính cách bi
quan, hay nhìn sự việc trên khía cạnh Xấu, là loại người (pessimist) yếm
thế và dễ chán nãn, khi được hỏi dùng những tính từ để tả tâm trạng mình,
họ thường dùng những từ như: sợ hãi, lo âu, căng thẳng nervous = bồn chồn,
distress = cùng khốn…… Ngược lại những người thiên về bên trái (left
oriented) lại dùng những tính từ như: mạnh mẽ, hăng hái, tỉnh táo, hãnh
diện, vui vẻ, exited (thanh thoát )…..
Các nghiên cứu nói trên, và nhất là gần đây, khi Ngài Datlai
Latma, cùng với những Thiền sư Tây Tạng và những giáo sư ở Mind and Life
institut thực hành một cuộc thí nghiệm rất qui mô với hình ảnh của não bộ
của những Thiền sư lúc tọa thiền đã chứng minh được rằng sự hành tập Thiền
Quán có thể rèn luyện được những tế bào thần kinh (neurones), để di chuyển
những hoạt động của não bộ về những vùng cho ta sự tỉnh thức, và thoải mái…
Và như vậy, cho dù ta không thay đổi được
hoàn cảnh và sự việc trong cuộc đời, nhưng ta thay đổi được cách tiếp nhận,
và cảm nhận của chính ta. Nói một cách khác, ta thay đổi được cái nhìn của
ta về những sự việc và hoàn cảnh xảy ra để mà chấp nhận, và thay đổi cái
quan niệm, cái cảm thọ của chính mình. Cũng như nhìn một ly nuớc có phân
nửa nuớc, ta có thể thấy nó vơi một nửa và có ý niệm Buồn. Ngược lại ta
cũng có thể thấy nó đầy một nửa và ý niệm Vui sẽ khởi sanh. Cùng một sự
việc, nhưng sự cảm thụ có khác nhau (Đầy/Vơi) sanh ra những tình cảm trái
ngược nhau (Vui/Buồn).
Những nguyên do của stress vẫn còn đó, (vì đó là những gì ta không thể nào
tránh khỏi trong đời sống) ông chủ vẫn khó tánh, bà vợ/ông chồng vẫn hay
cằn nhằn …Nhưng đối với một người tu tập thiền quán, sự cảm nhận của họ đã
đổi khác. Thay vì Đánh trả hay Chạy trốn, hay … chịu trận…họ biết cách Chấp
nhận và tìm thấy được Hạnh phúc ngay trong cái gọi là bể khổ này đây.
Do đó khi tu tập Thiền quán, bạn chẳng cần phải là người theo
đạo Phật, chẳng cần phải là Phật tử, bạn có thể theo tôn giáo của bạn, bạn
có thể là người theo Thiên chúa giáo, hay Hồi giáo, hay vô thần v.v…bạn
thấy Đời là những phiền não, là Khổ, và bạn ngồi xuống tập trung ý tưởng
mình vào hơi thở, vào 1 lời nói, 1 công án …Bạn đóng lại những stress
hormones đang tuôn trào trong cơ thể bạn. Bạn chuyển dòng điện não qua phía
bán cầu trái … và bạn thấy thơ thới, nhẹ nhàng … cơ thể bạn không còn bị
hành hạ bởi những độc dược tự bạn tiết ra, vấn đề đối với bạn cũng không
còn nan giải và trầm trọng. Bạn thấy bớt khổ … Và Đức Phật mỉm cuời ... vì
bạn đã đi đúng cái con đường mà Ngài muốn truyền đạt lại cho bạn ngay sau
khi Ngài chứng ngộ (cũng nhờ Thiền Quán) dưới cội Bồ Đề, con đường của Khổ
Tập Diệt Đạo, con đường của Tứ Đế, con đuờng Diệt Khổ …
Thật vậy, chính bạn đã tìm được và đi vào con đường của bạn
đã mở ra, bạn đi trên con đường ấy với nụ cười trên môi và sự tỉnh thức mà
bạn tự rèn luyện qua Thiền quán để có được bản lĩnh vượt qua những Stress
luôn chực chờ đón bạn ....
Hoàng Vũ
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching