From: Thuy Huong <
To:
Sent: Saturday, 15 June 2013 11:30 PM
Subject: Lịch Sử chữ Quốc Ngữ.-TÀI LIỆU RẤT QUÝ!
To:
Sent: Saturday, 15 June 2013 11:30 PM
Subject: Lịch Sử chữ Quốc Ngữ.-TÀI LIỆU RẤT QUÝ!
.LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ .
Người
Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng
thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có trước cả chữ Hán hàng
ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam
đã có những khám phá và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của
nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa
Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ trước kỷ
Công nguyên (BC).
Bộ
chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng
và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải
rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau,
những hình con nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm
thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để
ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa
Trống
đồng Đông Sơn tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp
Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ
lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt
dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng
hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng
bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa
của dân tộc Việt. Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... " Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện." Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…" Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, viết
bằng chữ Khoa Đẩu.
Chữ
Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú.
Tuy
nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, luôn khát vọng độc lập tự do,
ông cha ta từ chữ Hán tượng hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử dụng, nhằm
mục đích giữ gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại và bản sắc văn hóa thuần túy
dân tộc Việt.
Nhìn
chung Việt Nam vào
thời điểm lịch sử cổ, trung đại,
vẫn chưa chính thức có trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người Việt
chúng ta ngày xưa đa số được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt lòng mẹ,
trong sinh hoạt gia đình và thông qua những giao tiếp hàng ngày ngoài xã hội
là chính. Ở giai đoạn này chữ viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân
chúng nên các câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài (1)
nhờ có vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương
ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi trong nhân gian và ngày càng phong
phú, súc tích.
Trong
quá trình xã hội phát triển, dân tộc Việt Nam ta đã tiếp xúc giao lưu với
nhiều dân tộc khác. Trong tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau, vấn đề học
hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần thiết.
Vào
thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đã phải nhờ đến các cơ quan phiên dịch ở Trung
Quốc như Hội thông quán, Tứ Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ phiên dịch mỗi
khi giao tiếp với Việt Nam. Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số
thứ tiếng khác được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam Dịch Ngữ (*)
là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán với chữ tiếng Việt.
(*) An
Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách
giao dịch với Việt Nam từng phải triều cống.
Giai
đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập quốc, các triều đại Vua Việt Nam đã mượn
chữ Hán (chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật. Tuy nhiên, người
Việt vẫn nói tiếng Việt, không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ
tiên ta luôn
tìm cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đã
dựa trên chữ Hán để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất
hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần
Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu” (2)
bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho,
nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn
quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim
Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những
thành tựu đáng kể của
chữ Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Tuy
nhiên, chữ Nôm vì được cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi muốn học chữ Nôm
thì phải biết chữ Nho (chữ Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ thông trong
dân chúng, và ít được sử dụng rộng rãi.
Đoạn
Trường Tân Thanh (Truyện
Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du
(Sách
cổ viết chữ Nôm)
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng. Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt. Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Bản
Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 nguyên bản như sau:
Người có công hoàn thiện công trình này là Giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam,
và “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên xuất bản vào năm 1651.
Từ
điển Việt-Bồ-La
Phép
Giảng Giáo Lý Tám Ngày (trang đầu)
Hình
bìa “Sách Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày”
Link sách DOWN LOAD (Phép Giảng Giáo Lý
Tám Ngày)
(Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf) https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
Ðây là sách giáo lý được biên soạn để giúp cho các cha
truyền dậy giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng: La
tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên
xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là
chữ Việt. Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de
Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La,
Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt
song song. Cuốn sách gồm có 319 trang. Sách không chia ra từng chương,
mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách
như một giáo trình sư phạm.
Giáo
sĩ Alexandre de Rhodes
Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon,
Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đã sang Việt Nam truyền đạo trong
vòng sáu năm (1624 -1630). Ngài
là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó
mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học,
dễ viết, dễ phát âm, dễ học. Nhìn
chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ,
mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều
thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng
góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo
dân lúc bấy giờ.
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi. NGHE & Down load (AUDIO BOOK THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)
Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ được hoàn
chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:
(Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu của
linh mục Ðỗ Quang Chính, do nhà sách Ra Khơi xuất bản tại Sài gòn năm
1972).
Giai Ðoạn Sơ Khởi (1620-1626):
Các
nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. Nhưng
mãi sang đến đầu thế kỷ 17 những hoạt động truyền giáo này mới được ghi lại
khá đầy đủ. Khởi đầu, các nhà truyền giáo đã đến Hội An để giúp đỡ các giáo
hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố) thời ấy là một cảng buôn bán sầm uất, với
những phố riêng cho người Nhật và người Hoa.
Theo
sách cũ, người Âu Châu đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục Francisco de
Pina, người Bồ Ðào Nha (Portugal) (3) . Năm 1620, với sự công tác của người
bản xứ, các tu sĩ Dòng Tên (Jésuite) tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý
bằng chữ Nôm. Từ năm 1621 trở đi, các nhà truyền giáo đã bắt đầu chuyển qua
mẫu tự abc những địa danh, tên tộc, và từ-ngữ Việt trong những bản tường
trình cho giáo hội về hoạt động của họ.
Dựa
vào những tài-liệu viết tay còn được lưu trữ, trong giai-đoạn sơ khai của chữ
Quốc Ngữ, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ:
-
Annam = An Nam
-
Unsai = Ông Sãi
-
Ungue = Ông Nghè
-
Bafu = Bà Phủ
-
doij = đói
-
scin mocaij = xin một cái
-
Sayc Chiu = Sách chữ
-
Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết
.Giai Ðoạn Hai (1631-1648).
Những
tài-liệu viết tay trong giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho
thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra
và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ được viết như ta hằng thấy ngày nay. Thí dụ như:
· Nghệ An
· Bố Chính
Nhiều
chữ nhìn tương tự nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác
· Thính hoa: Thanh Hóa
· oũ bà phủ: Ông bà Phủ
· hụyen: huyện
· sãy: sãi
Ngoài
những bản tường trình, giai đoạn này còn có ba tài-liệu quan-trọng khác. Một
là biên-bản hội-nghị năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận
mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam (4) . Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của
linh mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim). Ba là cuốn
tự-điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa
(5) .
Ðến
năm 1972, biên bản cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La Mã
(6) . Còn hai cuốn tự-điển kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên
tỉnh Nhật Bản tại Macao, đã mất tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này
từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân), từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ
chúng ta còn biết đến hai cuốn tự-điển này là vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa
của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm 1651, đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn
tự-điển trên để soạn-thảo cuốn tự-điển của mình.
Giai Ðoạn Ba (1649-1651):
Giai
đoạn này được đánh dấu bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc Ngữ và việc ấn
hành hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên của Ðắc Lộ (7) . Hai cuốn ấy là:
· Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et
latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab
Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario
Apostolico, Roma, 1651, in-4°
· Cathechismvs pro iis, qui volunt
suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn
chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae
Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è
Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico,
Roma, 1651, in-4° . (Hết phần trích dẫn)
Toàn
Quyền Đông Dương Martial Merlin (Bên phải hình)
Mãi
cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1924 (Giai
đoạn Pháp thuộc), toàn
quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) đã ký quyết định chính
thức cho dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học, được phổ biến rộng rãi
toàn quốc. Sự ra đời và truyền bá chữ Quốc ngữ mọi nơi, trong các trường học, đã
giúp cho người Việt Nam, dễ
dàng học hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua sách báo,
nâng cao nhận
thức, dân trí phát triển cao hơn và nhanh hơn so
với các nước trong vùng.
Cũng nhờ từ đấy, người Việt, tiếng Việt đã thật sự hoàn toàn thoát
được ảnh hưởng chính sách Hán hóa của Trung Hoa đã đô hộ nước ta trong suốt
gần 1000 năm.
Học
sinh trường Công giáo tỉnh Nam Định
Tinh
thần sĩ phu (Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng những Nho giáo mà cả
văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ Nho học và thay đổi chữ viết từ chữ Nho
(chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đã giúp Việt Nam chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ
thuộc chữ Hán và văn hóa Trung Hoa.
Vì
đắm chìm lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, nên có người lầm tưởng rằng văn hóa
Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh hùng, liệt nữ Trung Hoa là khuôn
vàng thước ngọc cho văn hóa Việt, lịch sử Việt. Các tác giả chữ Nho xưa
thường dùng điển tích về những vua quan, anh hùng, thần thánh, phong tục, tập
quán của Trung Hoa để làm mẫu mực cho người Việt.
Nhưng
từ khi có chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn hóa Trung Hoa,
nhiều người mới có cơ hội tìm thấy lại cội nguồn, trở lại bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam. Từ đấy, nền văn hóa dân tộc càng
ngày càng được đề cao trong nền văn học Quốc ngữ, trong Sử sách
giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Bình
Trọng, Lê Lợi, Quang Trung mới là những anh hùng đích thực, những tấm gương
sáng trong lịch sử của người Việt Nam.
Nhưng
bất hạnh thay cho đất nước Việt Nam ngày hôm nay, (Hiểm Họa Mất Nước) mà mọi
người Việt Nam khắp nơi đang phải lên tiếng báo động khi nhìn thấy cầm quyền
cộng sản Việt nam đã và đang đưa dân tộc ta trở về vòng u tối của lịch sử.
Nhiều lễ hội trang trí với hình thức, màu sắc nặng tính chất Trung Hoa, những
phim ảnh Trung Hoa 24/24 giờ tràn ngập trên truyền hình, lập
"viện nghiên cứu Khổng Tử", mưu tính để chính thức đưa chương trình
tiếng Hoa (Hán ngữ) vào trường phổ thông toàn quốc nhằm mục đích Hán hóa
người Việt trong nước hiện nay cùng với nhiều hình thức khác. Song song là
việc "Bộ giáo dục" cho xuất bản, in ấn trên
"Sách Giáo Khoa Lịch Sử" với những
hình ảnh bôi bác, bất kính, miệt thị, xúc phạm các bậc tiền nhân,tổ tiên của
dân tộc Việt. Và còn nhiều chuyện đã xảy xa mới đây trong chủ trương Hán hóa,
mà những ai đang quan tâm đến vận mệnh đất nước đều biết rõ.
Lễ
Gọi hồn Mã Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây (Buổi lên đồng của đoàn văn công
Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
Hai
Bà Trưng dâng rượu chuộc tội với Mã Viện
(Buổi
lên đồng của đoàn văn công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
.Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam.
Trường Trung học Adran (Collège d'Adran) (3) Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được
các linh mục mở ở Sài gòn từ năm 1861 - 1887.
Trường ADRAN Sài Gòn, đến năm 1954 được chia thành 2
Trường Trung Học : Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
Hình
một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.
Chấm
dứt thời kỳ của nền giáo dục chữ
Hán, chữ Nôm: Lối học từ chương.
Một
lớp học trong giờ Địa lý.
Hình
Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.
Quang
cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
Giấy
Khai Sinh năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
Gia
Định Báo in chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn, ngày
15/4/1865.
Trương
Vĩnh Ký - Pétrus Ký (1837-1898)
Khi nói đến chữ Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam thì cũng
không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là người đầu tiên sáng
lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng biên tập tờ Gia
Định Báo in
chữ Quốc ngữ đầu tiên:
Ông Pétrus - Trương Vĩnh Ký đã
viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn như sau:
“…Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng
Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người
ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi
bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết
đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết không ra, ở
đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học đặng chữ Quốc ngữ, viết đặng, đọc
đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết…”
Ông Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà
giáo dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên
bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông
Tây, nên ông được: -
Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp. -
Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/archives/pages/recherche.aspx?keyword=Truong%20Vinh%20Ky,
- Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân
Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới
trong thế kỷ 19. -
Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông
viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng
nhất ở Việt Nam... (4) Ông
đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử,
địa lý, từ điển và dịch thuật... Nhưng
ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của
ông đã bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch "Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy,
Phản Động", trường trung học Trương Vĩnh Ký bị đổi tên là Lê Hồng Phong,
và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà - Sài Gòn bị cộng sản phá
hủy.
Tượng
đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.
Mãi
đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra
triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.
Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí
thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận
động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán)
học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lý do đơn giản: Quốc
ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đã vận động mở
trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường
Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến
khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:
“… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước
dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
Các
sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
Bài
mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.
(Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có gì đau bằng
người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất nước này, nhưng
đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi chữ nào...)
Chữ
Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp dân chúng dễ
dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết trong đời sống, theo dõi sát các
tin tức thời sự, các chuyển biến thời cuộc chính trị trong nước và thế giới
qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều đảng phái chống Pháp được thành
lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng chữ
Quốc ngữ.
Nền
văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một thể loại Văn
mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường Tam, bút hiệu
Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng
tác và hoạt động báo chí, khai sinh nên dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Nổi
trôi trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc đất nước
lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã cống hiến nhiều vào sự phát triển
Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Toàn bộ những tác phẩm
của Tự Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và được đưa vào trong giáo
trình giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền Nam sau 1954 mãi cho
tới 1975.
Lớp
học Mẫu giáo trong giờ Tập Viết, giáo dục miền Nam trước 1975
Trước năm 1975, ở miền Nam hầu như
không có tranh cãi gì nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một vài tranh
cãi nhỏ về chữ I và Y , Lí do hay Lý do, quý vị hay quí vị …) hoặc có G hay
không có G (sáng lạng hay xán lạn). Học sinh miền Nam khi học lên đến lớp 5
(Tiểu học), lớp 6 (Trung học) mà còn viết sai lỗi chính tả là một điều không
thể chấp nhận được.
Nhưng từ khi Việt cộng cưỡng chiếm
được miền Nam, thì Tiếng Việt, Chữ Việt đã bị Việt cộng thay đổi rất
nhiều, và đôi lúc trở nên thứ ngôn ngữ quái thai. Thực ra thì chữ Việt đã
được thay đổi từ lâu, ngay từ 1945 khi cộng sản còn ẩn núp dưới hai chữ Việt
Minh đã dùng bạo lực,súng đạn để cưỡng đoạt, cướp đoạt chính quyền hợp
pháp của chính phủ Trần Trọng Kim.
Không phải trong chế độ cộng sản Việt Nam không có người
khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người này lại chẳng có quyền hạn gì,
trong khi đó thì hầu hết bọn lãnh đạo lại ngu dốt, độc tài, ngoan cố, bạo lực
nên chúng muốn nói ngang nói ngược, người dân ai cũng phải nghe theo, chẳng
ai dại gì mà lên tiếng, phê phán hay cải sửa để bị
chụp mũ là phản động và bị bỏ tù cải tạo, mang
hoạ vào thân.
Chính vì thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm xuất hiện khắp nơi. " Đường Kách mệnh " , " Giải Fóng" Đó là Chữ Vẹm, tiêu biểu "đỉnh cao trí tuệ" XHCN.
Mãi tới khi người Việt tỵ nạn ở
Hải Ngoại đã phải bàn cãi khi xuất bản sách, báo, đọc tin và nhất là khi tiếp
xúc, nói chuyện với nhiều người Việt trong nước sau này đi đoàn tụ gia đình
theo diện (ODP), các quân nhân và công chức của chế độ VNCH đi định cư ở
Hoa Kỳ theo chương trình (HO), những bà con này đã vô tình quen dùng lối nói,
viết một số tiếng Vẹm trong những năm tháng sống tại quê nhà, vì thế vấn đề
xuất hiện tiếng Vẹm, chữ Vẹm ở hải ngoại đã được nêu lên và bàn luận rất
nhiều.
Thế nào là Tiếng Vẹm ?
Thế nào là chữ Vẹm ?
Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ
Việt. Nhưng vì nó là chữ của Vẹm đặt ra Không Đúng Cách, Không Theo Một
Nguyên Tắc Hay Quy Luật Nào Cả, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô nghê và tức
cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm.
Với chủ trương "cải hoá"
"nôm hóa" ngôn ngữ Việt, cầm quyền Việt cộng đã lạm dụng nhiều từ
thuần Việt quá mức, trở thành thô tục như:
“Xưởng đẻ” Việt cộng đã từng dùng thay cho “nhà bảo sanh”, “nhà
ỉa” dùng thay cho nhà “vệ sinh”, hay “linh thuỷ đánh bộ” dùng thay
cho “thuỷ quân lục chiến” … và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa”.
Chiến dịch Bài trừ Văn Hóa Đồi Trụy ( Sài gòn, ngày 21
tháng 5, 1975)
Việt cộng đã tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm, có thể vì những lý do sau :
1) Việt cộng muốn tiêu
hủy tất cả những gì mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy”
Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm
được miền Nam, việc đầu tiên mà Việt cộng làm, là bắt dân chúng phải tiêu huỷ
tất cả các văn hoá phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc "
đồi trụy" "phản động". Do đó, một số chữ của người Việt Quốc
Gia miền Nam dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ, không
dùng đến.
Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra
ngoài (tiểu tiện hoặc đại tiện), xưa ngưới Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi
là nhà cầu. Hai tiếng này nghe không được lịch sự cho lắm nên đã được chúng
ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy vậy mà chỉ vì muốn khác người, bọn cán cộng vô học
đã bỏ đi và thay thế bằng hai chữ nhà ỉa.
Phải chăng đà tiến hoá theo chủ
nghĩa xã hội của Việt cộng là như vậy ? Chẳng trách dân Việt Nam nay được bọn
chúng cai trị, được bọn chúng “giải phóng” đã mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày
một ngu si, dốt nát.
2) Việt cộng muốn chữ của chúng dùng phải khác chữ miền Nam chúng
ta dùng.
Việt cộng, chúng chỉ muốn chữ
chúng dùng phải khác người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt
Quốc Gia dùng mà thôi, chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt”
như đã từng tuyên truyền một thời gian sau 1975.
Điều này đối với Việt cộng rất
quan trọng, nhất là trong thời chiến, vì giúp cho chúng dễ phân biệt người
đang sống tại vùng chúng đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng
chúng kiểm soát, để chúng dễ khám phá ra những thành phần mà chúng cho là
gián điệp, phản động.
Vì vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch
ra loại chữ mới mà không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng
hay tối tăm, xuôi hay ngược, đúng hay sai. Có chữ đang là chữ Hán Việt, chúng
đổi sang chữ Nôm. Có chữ đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng
chẳng theo một nguyên tắc hay quy luật nào cả.
Thí dụ :
Chúng ta nói là “phát ngôn viên”
thì vẹm nói là : “người phát ngôn”
Chúng ta mượn tờ báo để đọc thì
vẹm nói là "trao đổi văn hóa"
Chúng ta nói là "nhà bảo
sanh" thì vẹm từng nói là "xưởng đẻ"
Chúng ta nói là “thăm viếng” thì
vẹm nói là “tham quan”
Chúng ta nói là “ghi danh” thì vẹm
nói là “đăng ký”
Chúng ta nói là “đá bóng” thì vẹm
nói là “bóng đá”
Chúng ta nói là “yếu điểm” thì vẹm
nói là “điểm yếu”
Chúng ta nói là “trở ngại” thì vẹm
nói là “sự cố”
Chúng ta nói là “xuất cảng” thì
vẹm nói là “xuất khẩu”
Chúng ta nói là “liên lạc” thì vẹm
nói là “liên hệ”
Chúng ta nói là "đồng ý"
thì vẹm nói là "nhất trí"
Chúng ta nói là "lo
ngại" thì vẹm nói là "quan ngại"
Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì vẹm
nói là quán triệt"
Chúng ta nói là "chỉ
tiêu" thì vẹm nói là "tiêu chí".
Chúng ta nói là “viên chức” thì
nói nói là “quan chức”.
Chúng ta nói là “chuyển âm” thi
vẹm nói là “lồng tiếng”.
Chúng ta nói là “dẫn giải” thì vẹm
nói là “thuyết minh"
Chúng ta nói là "mìn nổ
chậm" thì vẹm nói "bom hẹn giờ"
Chúng ta nói là "xe hơi" thì vẹm nói là "ÔTÔ CON"
Chúng ta nói là "Quan
thuế" thì vẹm nói là "Hải quan".
( Hải ..)
được vẹm gọi chung cho cả sân bay, bến tàu và cửa khẩu đường bộ
Chúng ta nói là "máy phát
thanh" hay (RADIO) thì vẹm nói là "Đài".
Sau ngày 30 /4/1975 Bộ đội nào cũng muốn mua một cái
"Đài" để mang về Bắc.Tiếc rằng ở SG chỉ có mỗi một cái Đài Phát
Thanh duy nhất.
Chúng ta nói là "Trực
thăng" thì vẹm nói là "máy bay lên thẳng"
Thế thì máy bay phản lực lên thẳng ngày nay, vertical
take-off and landing (VTOL) cũng
bay lên thẳng, thì vẹm sẽ gọi là gì để phân biệt..?
Vì ngu dốt, nên khi vẹm đảo ngược
hay thay thế bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là
đúng hay sai nữa hoặc lẫn lộn ý nghĩa của chữ này với ý nghĩa của chữ kia
chúng cũng không rõ.
Thí dụ 1 :
Chữ “đơn giản” mà đọc ngược lại là
“giản đơn” hay “vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai
một chút, còn có thể chấp nhận được vì nghĩa của nó không khác nhau.
Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa
lại là “điểm yếu” thì không thể chấp nhận được vì nghĩa nó khác hẳn.
Nhưng vì dốt nát, vẹm vẫn cố tình
dùng chữ “điểm yếu” thay thế cho chữ “yếu điểm”.
Chúng ta biết, về văn phạm, chữ
Hán giống chữ Anh ở một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con
ngựa trắng, người Anh gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mã.
Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là
tĩnh từ và có nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng.
Nhưng vì ngu dốt, Việt cộng chỉ
muốn nói khác với chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng
đã nôm hoá được chữ yếu điểm là chữ Hán.
Thế còn nhược điểm thì sao
? Nếu nói ngược lại thì điểm nhược là nghĩa gì ?
Vì ngu dốt lại nhưng hay nói
chữ. Vì vậy mà ngày nay, nhiều nhà giáo Việt cộng đào tạo vẫn
"hiểu" yếu điểm là điểm yếu và dậy lại học trò như vậy.
Trò chuyện qua Yahoo Messenger
với một em học sinh hiện ở SG:
Thay vì dạy em nói "con
người đó có tính nhân bản" thì giáo viên dạy em rằng "con
người đó có tính nhân văn"
Thí dụ 2 :
Chúng ta nói :
“Xin các bạn cô gắng nhanh lên một
chút vì tình trạng gấp rút, cấp bách lắm rồi”
Thì vẹm lại nói:
“Xin các đồng chí tranh thủ ,khẩn
trương vì tinh trạng khẩn trương rồi”.
Chúng ta dùng chữ cố gắng cho mệnh
đề thứ nhất và chữ gấp rút cho mệnh đề thứ hai vì hai chữ này có ý nghĩa khác
nhau. Nhưng đối với chúng thì cố gắng cũng là khẩn trương và gấp rút cũng là
khẩn trương.
Thí dụ 3 :
Sau khi tham dự một buổi nói
chuyện về một vấn đề văn học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự
:
“Xin anh cho biết cảm tưởng
(cảm nghĩ) của anh sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”.
Nhưng nếu người hỏi là một văn nô
Việt cộng, thì chắc chắn hắn sẽ hỏi người tham dự :
“Xin đồng chí cho biết cảm giác
của đồng chí sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”.
Đây chỉ là buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, đâu có
phải là một buổi vật lộn, đấu đá ghê gớm gì mà hỏi cảm giác ?
Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ
kép làm một khiến người đọc chẳng hiểu mô tê gì cả hoặc một chữ đã đầy đủ ý
nghĩa rồi, chúng lại thêm một chữ nữa khiến chữ mới trở nên kỳ cục.
Thí dụ :
Hùng vĩ và hiểm trở, vẹm ghép
thành Hùng hiểm,
Tương đương và thích hợp vẹm
ghép thành "Tương thích"
Quan tâm và lo ngại vẹm ghép
thành "quan ngại"
Tối ưu chẳng lẽ vẹm đổi thành Ưu tối ? Nên chúng thêm chữ
“nhất” thành "tối ưu nhất"
Thật lạ lùng ! Đã tối ưu rồi đâu cần phải thêm chữ nhất
vào làm gì?
3) Để bóp méo và xuyên
tạc Lịch sử VN như:
Việt minh dùng vũ lực,súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim thì vẹm gọi là Cách Mạng Tháng 8 - 1945.
Cờ Vàng là cờ Truyền thống của Dân
Tộc có từ bao đời thì vẹm nói là Cờ 3 que,Cờ Ngụy.
Cờ đỏ sao vàng, gốc là của tỉnh
Phúc kiến,Trung cộng hiện nay vẹm dùng thì vẹm gọi là cờ tổ quốc.
4) Không những chúng
thay đổi CHỮ, chúng còn thay đổi cả NGHĨA.
Thí dụ :
Gài mìn, pháo kích vào trường học,
nhà dân, bắt cóc, thủ tiêu, khủng bố, vẹm gọi là "hoạt động cách
mạng"
Để cướp chính quyền bằng vũ lực
súng đạn, vẹm gọi là "giải phóng nhân dân"
Để cướp đất đai của các điền chủ,
vẹm gọi là Cải cách ruộng đất.
Để bao che Đảng viên, cán bộ
tham nhũng hối lộ thì vẹm gọi là “đi đêm”, “móc ngoặc”,
"có quan hệ xấu", "có
hành vi tiêu cực" để giảm án hoặc tha tội.
Đề chìm xuồng, xóa án thì vẹm nói "Đang
trong vòng điều tra"
Muốn cướp tài sản của các thương
gia, vẹm gọi là Đánh tư sản mại bản.
Cấm người dân buôn bán, vẹm gọi
là Cải tạo thương nghiệp.
Muốn trả thù quân nhân, công chức
của chế độ cũ, vẹm gọi là Học tập Cải tạo.
Xe hơi (ôtô con) chạy xăng thì
chuyển ngược chạy bằng than thì vẹm gọi là Cải Tiến
Người dân Vượt biên khi bị bắt thì
vẹm gọi là "thằng phạm, con phạm"...
Người dân Vượt biên nếu thoát thì
vẹm âu yếm gọi là Kiều bào, "Khúc ruột ngàn dặm"
Để cướp đất dân oan, vẹm gọi
là KHU QUY HOẠCH
Đập phá nhà dân oan, vẹm gọi
là "giải phóng mặt bằng"
Để sống sót, vẹm phải chuyển sang
nền kinh tế tư bản thì vẹm gọi là "Đổi mới"
Để biến dạng thành Tư bản Đỏ bóc
lột nhân dân thì vẹm gọi là "Kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN"
Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do thì vẹm gọi là tài liệu phản động,công cụ khủng bố.
Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự
do, dân chủ, vẹm gọi là phản động, có âm mưu lật đổ chính quyền.
Để điều tra và có thể tống giam, vẹm gọi là Giấy mời.
Biểu tình chống Trung cộng xâm
lược thì vẹm nói là “có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị”
Biểu hiện lòng yêu nước thì vẹm
nói là “kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù
giữa các dân tộc và nhân dân các nước anh em'’.
Trung cộng xâm lược biên giới Việt
Trung thì vẹm chỉ gọi duy nhất 2 chữ là "kẻ địch".
Tàu Trung cộng bắn giết ngư dân ta
thì vẹm gọi là "Tàu Lạ Tấn Công"
Thay vì lên tiếng * (phản đối)
Trung cộng, thì vẹm lại dùng từ * (quan hệ) để giải quyết.
Tưởng niệm các chiến sỹ bị Hải quân Trung cộng sát hại,
khi in trên báo vẹm gọi Hải
quân Trung cộng là "HẢI
QUÂN NƯỚC NGOÀI"
Và còn nhiều không thể kể ra hết
những chuyện sau 1975 cho đến hôm nay...
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
Nhành Dẻ (Hình
trích từ Sách Giáo Khoa)
(Cấm Lái Xe ......Cài Quai)
Đèn Đỏ Được Đi Thẳng !!! ???
(XE THÔ SƠ)
(... NẤU BÁNH CHƯNG , GIÃ BÁNH DÀY )
(Làng Văn Hóa Xóm ... ! ! )
(Thường Xẩy
ra tai nạn)
(Xử
Lý...)
(LÃNG
PHÍ)
(BÁN
HÀNG RONG...)
(Thích
Quảng Đức)
(Nóng
Lòng chờ hỗ trợ)
(Sông
Sâu Chớ Lội)
(Tấm
Gương...)
HCM chưa bao giờ là Danh nhân Văn Hóa Thế Giới như VC
tuyên truyềnThay vì in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, thì VC in sai là
DOANH NHÂN.
Tóm lại, ngôn ngữ (tiếng nói và
chữ viết) là phương cách để con người giao tiếp, thông tin với nhau, hoặc
diễn đạt tư tưởng của mình cho người khác biết. Ngôn ngữ cũng là một phần của
văn hoá, là linh hồn của một dân tộc. Trải qua thời gian và không gian, ngôn
ngữ không ít, nhiều đã phải thay đổi để cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và
đà tiến hoá của xã hội. Những tác phẩm văn học, thơ ca, những bài hát,
tranh tượng, hình ảnh nghệ thuật, của miền Nam trước 1975 một thời đã từng bị
xé nát,đốt sạch trong chiến dịch bài trừ "Văn Hóa Đồi Trụy" của
Việt cộng năm xưa.Ngày nay vẫn đang là những sách hiếm,quý trong tủ sách của
những người dân Việt có tư duy, trình độ văn hóa, nhận thức.
Việc thay đổi chữ cũ vì thô tục,
vì thiếu nghĩa, vì không trong sáng, tạo lập thêm chữ mới để thay thế những
chữ cũ không còn hợp thời hay không có, là một việc nên làm và còn là một
trách nhiệm để làm phong phú cho chữ Quốc ngữ.
Nhưng nếu chỉ vì mục đích chính
trị ngông cuồng, tự đại, hay chỉ vì lòng tự ty mặc cảm ngu dốt muốn che đậy
sự tụt hậu của hệ thống văn hóa, giáo dục hiện nay mà Việt cộng thay đổi từ
ngữ một cách nhố nhăng, vô tội vạ, làm cho chữ Việt trong nước ngày nay càng
trở nên thô tục, kỳ cục hoặc tối tăm, sai lạc ý nghĩa, thì đó không những là
một điều sai lầm mà còn có tội ác đối với dân tộc.
_____________________________________________________________
"Tuyệt vời
của cuộc đời là sự khác biêt !" Vì thế nếu quý vị
không muốn tiếp tục nhận, xin báo tuan.b.cao@gmail.com. Thành thật cám ơn.
Cao Bá Tuấn
"Bạc lòng nhưng chẳng cam lòng
mang
theo nhục nước vào trong mộ phần"
HHC
--
_____________________________________________________________
"Tuyệt vời của cuộc đời là sự khác biệt!" vì thế nếu quý vị không muốn tiếp tục nhận, xin báo tuan.b.cao@gmail.com. Thành thật cám ơn.
Cao Bá Tuấn
"Bạc lòng nhưng chẳng cam lòng,
mang theo nhục nước vào trong mộ phần" - HHC
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching