KINH TẾ XHCN ĐƯA
QUẦN CHÚNG ĐẾN NGHÈO ĐÓI
Giáo sư
Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
14.06.2012. Cập nhật 28.06.2012
Mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã cáo chung với Nga và Đông Âu. Trung quốc
và Việt Nam vẫn bấu víu lấy nội dung của mô hình, mà chỉ thêm cái đuôi “định hướng
XHCN“ vào Kinh tế Thị trường để đánh lừa thiên hạ. Nội dung vẫn giữ chủ trương
độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế mà chúng tôi gọn lại là Mô hình Kinh tế
XHCN.
Cuối năm 2011, Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới, Ông Robert ZOELLICK, cũng như Tổng
Giám Đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, Bà Christine LAGARDE, đều họp báo tại chính Bắc
Kinh thôi thúc Trung quốc phải cấp bách Cải tổ từ căn nguyên Mô hình Kinh tế
XHCN bởi vì với Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới hiện nay, Kinh tế XHCN
đi xuống giốc và Mô hình đang tan rã.
Bài viết này nhằm cắt nghĩa những lý do đưa đến tụt giốc Kinh tế và tan rã của
Mô hình Kinh tế XHCN. Có những lý do thuộc nội tại của Mô hình. Có những lý do
từ sự mất tin tưởng và từ sức ép của nền Kinh tế Tự do Thị trường nước ngoài.
Những lý do ấy được trình bầy qua những điểm sau đây:
=>
Đối lực làm tan rã mô hình như một định mệnh theo lý luận của Marx
=>
Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực trong đảng cầm quyền
=>
Áp lực từ nền Kinh tế Thị trường của nhữn nước ngoài
=>
Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam và những biện pháp vá víu
Đối lực làm tan rã mô hình như
một định mệnh theo lý luận của Marx
Lý
luận của Karl Marx: TƯ BẢN tự hủy diệt
Ý thức hệ Cộng sản dựa trên lý luận của Karl Marx về Định mệnh Kinh tế Tư bản
(Fatalité Economique Capitaliste). Kinh tế Tư bản đặt Tiền đề là TƯ HỮU. Vì tư
hữu (Propríeté Privée) mà phải có Tự do kinh doanh (Liberté d’Entreprise)
và rồi Tự do Trao đổi ở Thị trường (Libre Echange au Marché).
Karl Marx lý luận rằng nền Kinh tế Tư bản Tự do và Thị trường gồm những bóc
lột của giới Tư bản đối với giới Lao động. Nền Kinh tế ấy vô sản hóa giới Lao động
(Prolétarisation des Travailleurs) đến độ giới này chịu không nổi mà phải đứng
lên làm Cách Mạng Vô sản đòi lại những Tư sản cho giới vô sản của mình. Dựa
trên cách đo lường bằng sức Lao động cho những Giá trị sản phẩm Kinh tế mà nhà
đại Kinh tế gia cổ điển Anh, David RICARDO, đã có sáng kiến đặt ra, Karl Marx
nói đến việc đấu tranh của giới Lao động. Theo David RICARDO, Giá trị của một sản
phẩm Kinh tế được đo lường bằng sức Lao động hội nhập vào sản phẩm. Tư bản vì vậy
được coi là sự chiếm hữu sức Lao động từ giới Thợ thuyền để làm sở hữu của giới
Tư bản. Giới này quay lại dùng Tư bản để bóc lột thêm giới Thợ thuyền nữa. Karl
Marx gọi đây là vông thân Kinh tế (Alíenation Economique), nghĩa là Tư bản thuộc
Thợ thuyền, nhưng Thợ thuyền đưa tặng cho giới Tư bản để rồi giới Tư bản quay lại
bắt Thợ thuyền làm đầy tớ cho Tư bản.
Lénine lấy Lý luận này của Karl Marx làm ý thức hệ cho Cách Mạng Vô sản và
kêu gọi đấu tranh giai cấp: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN HÃY ĐỨNG LÊN ĐÒI LẠI TƯ BẢN CHO
ĐOÀN NGŨ THỢ THUYỀN, dù bằng những biện pháp đẫm máu (Lutte des Classes
sanglante). Nhưng giới Vô sản là đám đông, phải có một Nhóm người đứng ra quản
trị những Tư sản vừa thu hồi được. Nhóm người này là đảng Cộng sản. Những Tư hữu
trở thành Công hữu và do đảng Cộng sản nắm giữ, chỉ huy và làm Kinh tế. Đó là nền
Kinh tế Chỉ huy (Economie Dirigiste) với Công hữu (Propríeté Collective) và với
những Hoạch định Kinh tế của Nhà Nước (Plans Economiques Etatiques).
Theo
dòng Lý luận của Karl Marx,
TƯ
BẢN ĐỎ bóc lột cũng theo Dịnh Mệnh tự hủy diệt
Nếu Karl Marx gọi việc Vô sản hóa là một tiến trình tự động (Processus
automatique) và việc sụp đổ của nền Kinh tế Tư bản là một Định Mệnh của chính
Tư bản (Fatalité d’auto-destruction du Capitalisme), thì Lịch sử sự sụp đổ của
Thế giới Cộng sản cũng cho thấy một Định mệnh tự hủy diệt của TƯ BẢN ĐỎ bóc lột
giới vô sản, đó là việc tự sụp đổ của Cộng sản do chính giới Vô sản thiếu ăn đến
cùng cực (Fatalité d’auto-destruction du Communisme/du Capitalisme rouge).
Thực vậy, trong lúc nền Kinh tế Tư hữu Tự do và Thị trường tiếp tục phát đạt
và Tư sản hóa dần dần giới Lao động, thì nền Kinh tế Công hữu và Chỉ huy lại
càng vô sản hóa giới Lao động đến cùng cực. Đến lúc mà giới Lao động này quá
đói khổ trong một nền Kinh tế do đảng Cộng sản chỉ huy, thì họ đứng lên lật đổ
nền Kinh tế chỉ huy này và đảng Cộng sản độc tài chỉ huy.
Nga và các nước Đông Aâu đã bỏ độc tài độc đảng và lấy lại nền Kinh tế tư sản
Tự do và Thị trường.
Viet Nam và Trung quốc vẫn cố tình ngụy biện bám víu Ý thức hệ đã sai lầm lịch
sử ấy. Dù cố tình ngụy biện vì quyền hành cho độc đảng của mình, nhưng cái Định
mệnh tự hủy diệt vẫn lạnh lùng diễn ra.
Sau khi Nga và Đông Âu từ bỏ mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy, Trung quốc
và Việt Nam khép kính của để cố thủ giữ lấy nội dung mô hình Kinh tế Cộng sản
cũ khiến dân chúng đói nghèo đến cùng cực với việc khép kín. Trung Cộng và Việt
Nam đành phải tuyên bố MỞ CỬA cho Thế giới Tư bản với nền Kinh tế tư sản Tự do
và Thị trường.
Cái Định Mệnh Tự Hủy Diệt (Fatalité d’auto-destruction) cứ lù lù tiến tới
và tăng tốc khi giai đoạn MỞ CỬA cho dân thấy sự thành công của Thế giới tư bản.
Giai đoạn MỞ CỬA có những phát triển Kinh tế do sự làm ăn với Thế giới tư sản Tự
do Thị trường. Đảng cố tình tuyên truyền rằng đó là công của đảng. Nhưng Dân
chúng khám phá ra những tham nhũng và lãng phí có hệ thống của đảng, đó là kẻ
thù của phát triển. Phải nói rằng sự phát triển hiện nay là do sự nhẫn nại làm
ăn của Dân chúng Việt Nam, do nguồn vốn cung cấp hàng năm của khối người Tỵ nạn
Cộng sản ở nước ngoài, do tiếp cận hạn hẹp làm ăn với Thế giới Tư bản. Chính đảng
Cộng sản làm thất thoát và trì hoãn việc phát triển này mới đúng. MỞ CỬA và HỘI
NHẬP với nền Kinh tế Thị trường tư bản, Kinh tế Trung quốc và Việt Nam có những
thu nhập, nhưng những thu nhập này lại lọt vào tay những đảng viên cầm quyền
khiến hố sâu Giầu—Nghèo mỗi ngày mỗi khơi rộng. Thu nhập Kinh tế nằm trong tay
một thiểu số nhóm lợi ích TƯ BẢN ĐỎ, còn quần chúng thì bị bóc lột đến đói
nghèo. Quần chúng đói nghèo này trở thành lớp VÔ SẢN mà lý luận của Karl Marx
đã coi như giai cấp nồng cốt lật lại giai cấp TƯ BẢN dù XANH trước đây hay ĐỎ
hiện nay. Việc đứng lên của giới VÔ SẢN lật lại TƯ BẢN XANH hay ĐỎ là một Định
mệnh Tự hủy diệt (Fatalité d’autodestruction).
Đã từ năm 2010, chính Thủ tướng ÔN GIA BẢO, trước Quốc Hội Trung quốc họp
ngày 14.03.2010, đã báo trước về Định mệnh tự hủy diệt này:
“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la
corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du
gouvernement”
(Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và
tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà
nước” (Le Monde
16.03.2010, trang 16).
Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực
trong đảng cầm quyền
Cái Mô hình chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế làm phát
sinh và lan tràn THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ trong hàng ngũ đảng cầm quyền. Nếu cái Định
mệnh tự hủy diệt, theo lý luận của Karl Marx, đến từ giới VÔ SẢN do TƯ BẢN XANH
hay ĐỎ tạo ra, thì việc làm tan rã Mô hình Kinh tế XHCN hiện hành còn đến từ
chính giới Lạnh đạo xâu xé nhau về THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Trong Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản khóa XI
được tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 5 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng nói chính yếu
về vấn đề tham nhũng. Đó cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất
được Ban chấp hành Trung ương đảng thảo luận trong suốt cuộc hội nghị kéo dài đến
chín ngày. Trước đây, nhiệm vụ Phòng chống Tham nhũng được giao cho Nguyễn Tấn
Dũng (Nhà Nước), nay việc đó được chuyển về chính Bộ Chính trị (Đảng). Khi nói
đến việc chống Tham nhũng thì cả người trách nhiệm Đảng cũng như Nhà Nước đều lấy
“Tinh thần Cách Mạng “ làm phương tiện để diệt Tham nhũng. Nhìn như vậy thì việc
chống Tham nhũng không đi vào thực tế của vấn đề. Thực vậy, “Tinh thần Cách Mạng“
đã chết nghoẻo từ lâu rồi. Đảng (Bộ Chính trị) và Nhà nước (Nguyễn Tấn Dũng), từ
thằng trên xuống thằng dưới đều THAM NHŨNG, thì làm thế nào đứng giữ trách nhiệm
Phòng Chống Tham nhũng được. Đừng nói đùa để bịp bợm. Hãy vào sự thực căn
gnuyên của THAM NHŨNG.
Nhân
chi sơ, Tính tham lam
Năm 1964, cách đây gần nửa Thế kỷ, tôi bắt đầu hội nhập đời sống Chính trị
Sinh viên tại Sài gòn, chống lại HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC của Bác sĩ Lê Khắc
Quyến khởi xướng từ Huế tràn vào Miền Nam. Một Vị lão luyện trong Chính trường
đã khuyên tôi: “Khi cậu hoạt động Chính trị, thì phải tránh hai điều: (i) đừng
động chạm đến những vấn đề lăng nhăng đàn bà con gái; (ii) đừng liên hệ đến những
điều không sáng tỏ về tiền bạc. Khi tránh được hai vấn đề ấy thì quần chúng sẽ
tha thứ, cho dù cậu có dốt về Chính trị “.
Ngày nay, suy nghĩ về hai vấn đề này, tôi thấy đây là hai vấn đề thuộc về
thể xác từ khi chào đời, nghĩa là thuộc bẩm sinh. Có thể nói là “Nhân chi sơ,
tính Dâm dục và Tham lam!”. Cuộc sống thân xác của một con người mang hai tính
đó. Freud đã khẳng định rằng mọi hành động của một con người có thể cắt nghĩa từ
tính Dâm dục. Tính Dâm dục là sự thỏa mãn thân xác cho xung động ham thích. Còn
tính Tham lam của cải vật chất là để trước hết bảo toàn sự sống còn thân xác.
Hai tính đó có ngay từ lúc con người mới sinh ra va mang cái xác con người. Khi
lớn lên với Giáo dục, từ Văn Hóa đến Tôn Giáo, người ta dậy cho những GIÁ TRỊ
thuộc phạm vi Tinh thần nhằm kềm chế hai cái Tính bẩm sinh thuộc Thân xác là
Dâm dục và Tham lam vật chất. Vì vậy khi một đảng viên Cộng sản không còn Tinh
thần Tôn Giáo, Văn hóa hay Cách Mạng, thì không còn phương tiện kềm chế hai
tính bẩm sinh Dâm dục và Tham lam vật chất. Phòng chống Tham nhũng được trách
nhiệm bởi Nhà Nước (Nguyễn Tấn Dũng) hay bởi Đảng (Nguyễn Phú Trọng), rồi cả
hai lấy “Tinh thần Cách Mạng “ ra để chống, thì đều là chuyện mây gió bịp bợm.
Phải
diệt cái Hoàn Cảnh làm
Phát
sinh và Lan tràn Tính Dâm dục và tính Tham lam
Hai cái Tính Dâm dục và Tham lam vật chất thuộc bẩm sinh con người, thì ở
Xã hội nào cũng có giống nhau. Điều hệ trọng là Tổ chức Xã hội khả dĩ ngăn chặn
sự phát sinh và triển nở hai cái Tính bẩm sinh ấy. Chúng tôi xin kể ra đây một
vài tỉ dụ cho thấy rằng phải diệt cái HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển tính
Dân dục và tính Tham lam, chứ không phải diệt hai Tính bẩm sinh ấy.
Tỉ dụ thứ nhất về Tính dâm dục. Chúng tôi còn nhớ lại rằng khi sống tu trì
trong Chủng viện, mỗi lần gặp khách đến thăm, nhất là phái nữ, thì phải gặp ở
Phòng Khách mở cửa sổ quang đãng, mọi người có thể nhìn thấy. Thực vậy, cho dù
một Thánh nhân, đã trải qua nhiều năm “diệt dục“, nhưng khi Thánh nhân bị nhốt
trong phòng tối cùng với một mỹ nhân, không ai nhìn thấy, thì có ngày lòng Dục
bẩm sinh nổi lên và Thánh nhân có thể hú hí với mỹ nhân.
Tỉ dụ thứ hai về Tính Tham lam vật chất. Một người được giáo dục và thực
hành Công lý nhiều năm. Nếu lúc này cho người đó Quyền hành độc đoán sinh sát
người khác và đặt bên cạnh người ấy một đống vàng, thì có lúc người đó cũng lượm
mấy thỏi vàng vào túi làm của riêng bảo đảm cho cuộc sống thân xác của mình. Nếu
ai nghi ngờ, thì người có quyền và đã biển thủ vàng sẽ dùng quyền độc tài mà bịt
miệng kẻ khác. Điều quan trọng là đã tạo cho con người biển thủ trên đây cái
HOÀN CẢNH vừa có quyền độc tài, vừa ngồi bên cạnh đống vàng. Xin nhắc lại rằng ở
thời Mao Trạch Đông, quyền độc tài còn mạnh hơn thời nay, nhưng THAM NHŨNG ít
hơn vì thời Mao Trạch Đông, không có đống vàng ở bên cạnh mà biển thủ, chứ
không phải thời Mao Trạnh Đông được giáo dục về Công lý kỹ càng hơn.
Dứt
bỏ Cơ chế CSVN là diệt HOÀN CẢNH làm
nẩy
sinh và phát triển THAM NHŨNG
Cơ chế CSVN chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Đó là HOÀN
CẢNH làm nẩy sinh tham nhũng, lãng phí. Không cần phải đưa Phòng chống tham
nhũng từ Nguyễn Tấn Dũng về cho Nguyễn Phú Trọng. Cả hai đều không chống nổi
tính Tham lam bẩm sinh tự con người, mà PHẢI TÁCH RỜI ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ RA KHỎI
ĐỘC QUYỀN KINH TẾ thì mới có thể kềm chế được THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ. Nó giống
như việc đừng nhốt chung trong Phòng tối một Thánh nhân và một Mỹ nhân, cũng
như đừng cho một nhà Độc tài quyền hành Chính trị có toàn quyền về đống Vàng ở
bên cạnh.
Chống THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ không phải là diệt tính bẩm sinh THAM LAM VẬT CHẤT
của cá nhân, mà là diệt cái HOÀN CẢNH làm phát sinh và tràn lan tinh THAM LAM.
Bãi phân là HOÀN CẢNH để nẩy sinh và lan tràn giòi bọ. Giao bãi phân cho Nguyễn
Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng săn sóc, thì bãi phân vẫn là bãi phân, nghĩa là vẫn
một HOÀN CẢNH, mà giòi bọ vẫn nhung nhúc. Phải HỐT ĐI BÃI PHÂN, thì giòi bọ mới
hết chỗ (HOÀN CẢNH) nẩy sinh và lan tràn vậy.
Mô hình Kinh tế XHCN tạo ra THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ để tự đánh nhau giữa cấp Lãnh
đạo làm suy thoái Kinh tế quốc dân. Phải đập tan cái Mô hình Kinh tế XHCN ấy vậy.
Áp lực từ nền Kinh tế Thị trường
của những nước ngoài
Ngày 18.05.2012, chúng tôi đã viết một bài cho báo ĐỐI LỰC về khuynh hướng
của TT.HOLLANDE là áp lực lên Kinh tế Trung quốc khi phải cứu vớt Kinh tế Pháp
và Liên Âu. Nội dung của bài viết này là việc Phỏng vấn chúng tôi của một Cơ
quan Truyền thông Pháp nhân dịp Ông HOLLANDE được bầu lên Tổng thống Pháp.
Khuynh hướng của Liên Âu là càng ngày càng áp lực lên Kinh tế Trung quốc thậm
chí đến nỗi Trung quốc hoảng sợ trước một viễn tượng Bảo Hộ Mậu dịch của Liên
Âu. Thực vậy, ngày 23.05.2012, Nghị Viện Liên Âu đã lấy những quyết định thắt
chặt lại Kinh tế Trung quốc. Chính vì vậy mà Cơ quan Truyền thông Pháp trên đây
lại Phỏng vấn chúng tôi ngày 29.05.2012 về tầm ảnh hưởng của những điều quyết định
của Nghị Viện Liên Âu. Nội dung phần dưới đây là tóm tắt những trả lời Phỏng vấn
của chúng tôi cho Cơ quan Truyền thông Pháp theo sát những câu hỏi mà Cơ quan
Truyền thông Pháp đặt ra cho chúng tôi. Trung quốc phản ứng liền và tỏ ra rất sợ
hãi một viễn tượng Bảo Hộ Mậu Dịch. Ơû phần cuối bài tóm tắt, chúng tôi viết
thêm thông tin về thái độ của những Công ty Liên Aâu muốn bỏ Trung quốc để chuyển
sang nước khác. Như vậy, Kinh tế Trung quốc đang tụt giốc, thì nay với Quyết định
của Nghị Viện Liên Aâu, đà tụt giốc càng xuống nhanh hơn.
Tóm
tắt trả lời Phỏng vấn
của
Cơ quan Truyền thông Pháp
CÂU HỎI 1:
Vì những lý do sâu xa nào mà nghị viện châu Âu ra nghị quyết bảo vệ thị trường
chống cạnh tranh của Trung Quốc?
TRẢ LỜI: Quốc Hội
Liên Âu am tường về chế độ Cộng sản và những mưu mô can thiệp của Nhà Nước vào
Kinh tế hơn là Quốc Hội Hoa kỳ vì một số đông Dân Biểu Liên Âu thoát thân từ gốc
chế độ CS Đông Âu. Họ không lầm về những mưu mô của bàn tay Nhà nước vào Kinh tế.
Ngay Chủ tịch Liên Âu cũng đã từng tuyên bố Kinh tế Trung quốc chưa phải là nền
Kinh tế Thị trường tự do thực sự. Biết như vậy, nhưng Liên Âu vẫn yên lặng cho
đến nay vì hy vọng ở Thị trường lớn Trung quốc như bán Máy Bay, Máy móc cao và
xây những nhà máy Điện nguyên tử… Họ biết tỏ tường rằng không thể có sự cạnh
tranh thương mại và kinh tế tương xứng đồng đều giữa hai nền Kinh tế vì Liên Âu
chủ trương Kinh tế Thị trường thực sự và Trung quốc vẫn chủ trương Kinh tế có sự
độc đoán của Nhà nước Cộng sản. Nhưng cho đến nay, ngày 23.05.2012, Quốc Hội
Liên Au mới lấy biểu quyết mạnh yêu cầu các Chính quyền các nước thuộc Liên Âu
đưa ra những biện pháp ngăn chặn sự cạnh tranh thương mại, kinh tế không đồng đều
giữa hai khối và đòi hỏi hàng hóa Trung quốc phải tuân thủ những mẫu mực theo
đúng khuôn mẫu Liên Âu.
Như vậy cái lý do sâu xa, không được nói ra minh nhiên, để đưa ra những đòi
hỏi này đối với Trung quốc là trong ý hướng:
*
thứ nhất: ngăn chặn sự tràn
lan của hàng hóa Trung quốc tại Liên Âu làm hụt cán cân thương mại giữa hai khối
tới 170 tỷ Euro mỗi năm;
*
thứ hai: che chở sự sản xuất quốc nội tại mỗi quốc gia để cứu thất nghiệp tại
Liên Au;
*
thứ ba: nếu muốn những chương
trình phát động Kinh tế nâng cao độ phát triển như TT.Hollande đang nhấn mạnh,
thì nhất thiết phải làm hai điều trên đây.
CÂU HỎI 2:
Một số biện pháp mà nghị viện đưa ra?
TRẢ LỜI: Để thực
hiện ý hướng theo lý do sâu xa vừa nêu trên, Nghị Viện Liên Au đưa ra những biện
pháp sau đây:
*
Biện pháp thứ nhất: Liên Au phải
đưa ra những biện chống lại việc Cạnh tranh thương mại “bất chính “ của Trung
quốc, nghĩa là đôi bên phải áp dụng nguyên tắc tương xứng cạnh tranh để có sự đối
tác đồng đều. Bản tin AFP ngày 23.05.2012 từ Strasbourg viết: “Ils demandent
à la Commission d'appliquer le "principe de réciprocité" pour
"rétablir une concurrence équitable et garantir une meilleure application
des mêmes règles pour tous". Dénonçant la "concurrence déloyale des
entreprises chinoises" sur leur sol, "notamment grâce à des aides
d'Etat déguisées", le Parlement "demande à la Commission d'élaborer
rapidement un instrument européen, si possible en 2012, pour assurer la
réciprocité dans le domaine de l'ouverture des marchés publics". (Những
Nghị viên yêu cầu Uûy Ban áp dụng “nguyên tắc tương xứng “ để “tái lập cạnh
tranh đồng đều và bảo đảm việc áp dụng đúng đắn những quy luật chung cho mọi
người. Tố cáo “việc cạnh tranh bất chính của những xí nghiệp Trung quốc tại
chính lãnh thổ Trung quốc, “nhất là nhờ những hỗ trợ trá hình của nhà nước “,
Quốc Hội yêu cầu Uûy Ban thực hiện nhanh chóng một văn kiện Aâu châu, nếu có thể
trong năm 2012, để bảo đảm sự tương xứng trong lãnh vực mở những thị trường
công cộng.”
*
Biện pháp thứ hai: Đòi hỏi những
hàng hóa Trung quốc, khi nhập vào Liên Âu, phải theo những mẫu mực ấn định của
Liên Âu. Theo thống kê mới nhất công bố trong tuần vừa rồi, thì 58% hàng hóa
Trung quốc lưu hành tại Liên Âu không theo đúng mẫu mực đã ấn định. Bản Tin AFP
ngày 23.05.2012 từ Strasbourg viết: “Le Parlement va plus loin en
"exige(ant) que tous les biens en circulation sur le marché intérieur
respectent strictement les règles et normes européennes". (Quốc Hội còn đi
xa hơn nữa là “đòi hỏi tất cả các hàng hóa lưu hành ở Thị trường nội địa
Liên Au phải tuân thủ nghiêm ngặt những mẫu mực ấn định của Aâu châu.)
*
Biện pháp thứ ba: Việc Trung
quốc độc đoán ấn định tỷ giá đồng Nhân Dân tệ thấp hơn sánh với tỷ giá thị trường
sánh với đồng Euro cũng là biện pháp của Trung quốc làm mất sự cạnh tranh tương
xứng giữa hai khối. Bản Tin AFP ngày 23.05.2012 từ Strasbourg viết: “Evoquant
les problèmes posés par la "sous-évaluation et la non-convertibilité
alléguées du yuan", les députés "invitent la Commission à démontrer
comment le régime de taux de change fixe porte atteinte à la compétitivité de
l'Union, puis à prévoir des actions prioritaires appropriés". (Nói đến những
vấn đề đặt ra do việc hạ thấp xuống và việc không hoán chuyển của đồng tiền
Yuan, những Nghị viên kêu gọi Uûy Ban chứng minh cho thấy làm thế nào chế độ tỷ
giá cố định vi phạm đến tính cạnh tranh của Liên Aâu và đồng thời dự liệu
những hành động cho phù hợp.)
Ba biện pháp trên đây được phép đưa ra trong khuôn khổ Tổ chức Mậu dịch Thế
giới, nhưng đó là những Biện pháp thuộc loại “không giá biểu“ (Mesures
protectionnistes non-tarifaires) không được kể vào những Ký kết Quan thuế
(Droits de Douanes internationalement contractés) quốc tế.
CÂU HỎI 3:
Phản ứng của Bắc Kinh qua tuyên bố của phát ngôn viên bộ ngoại giao Hồng Lỗi
như thế nào? Có đứng vững không?
TRẢ LỜI: Ông Hồng
Lỗi, Phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung quốc, để phản ứng lại qua cuộc Họp
báo thường nhật tại Bắc Kinh, đã hai lần nhắc ra chữ Bảo Hộ Thương mại. Nhưng
Ông không dám tố cáo chắc nịch rằng Nghị Viện Liên Âu chủ trương Bảo Hộ Thương
mại, mà ông chỉ ước ao rằng Liên Âu đừng “đi theo hướng Bảo Hộ Thương Mại“. Bản
Tin AFP ngày 24.05.2012 từ Bắc Kinh viết về lời tuyên bố và sợ hãi Bảo Hộ Mậu dịch
của ông Hồng Lỗi, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao TQ: "Nous espérons
que l'UE va traiter cette question de manière raisonnable et ne pas recourir au
protectionnisme" (Chúng tôi hy vọng rằng Liên Au sẽ ứng xử về vấn đề này một
cách hữu lý và đừng đi vào con đường Bảo Hộ Mâu Dịch)
Trên thực tế, thì Trung quốc, từ bản chất của chủ trương Kinh tế và Tiền tệ
do Nhà nước độc đoán quyết định, đã thi hành trong những năm trường việc Cạnh
tranh không đồng đều giữa hai khối, đã không tuân thủ nhữnng mẫu mực hàng hóa
và dùng độc đoán tỷ gia đồng Nhân Dân tệ một đàng nâng đỡ cạnh tranh của hàng
xuất cảng, đồng thời ngan cản nhập cảng hàng nước ngoài.
Dù ngầm ý của Nghị Viện Liên Âu là Bảo Hộ Thương Mại đi nữa, thì Nghị Viện
chỉ đưa ra những Biện pháp không giá biểu (Mesures non-tarifaires) được phép
trong khuôn khổ Tổ chức Mậu dịch Thế giới và ngăn chặn những vi phạm từ phía
Trung quốc. Bắc Kinh không thể phản kháng hay khiếu nại Liên Âu về những biện
pháp này.
CÂU HỎI 4:
Hệ quả? TQ bị thiệt hại, giảm tỷ số tăng trưởng, nhưng họ sẽ làm sao? Dồn hàng
dõm qua VN?
TRẢ LỜI: Xuất cảng
của Trung quốc đã liên tục giảm xuống trong thời gian Khủng hoảng của Liên Au
vì giới Tiêu thụ giảm hẳn Mãi lực. Chính Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã chỉ còn ao ước
rằng độ Phát triển Kinh tế của Trung quốc năm 2012 chỉ còn 7%. Những biện pháp
mà Nghị Viện Liên Âu mới quyết định sẽ làm cho độ Phát triển này giảm xuống hơn
nữa. Xuất cảng Trung quốc sang Liên Âu sẽ thụt xuống hẳn. Thụt xuất cảng có
nghĩa là giảm Sản xuất và Xí nghiệp đóng cửa để Thất nghiệp tại Trung quốc
tăng, tạo hỗn loạn Xã hội và Chính trị. Nếu Nhà nước vẫn nâng đỡ Xí nghiệp và
giữ mức độ Sản xuất, thì hàng hóa trở thành quá nhiều và tồn đọng tại Trung quốc.
Cái hậu quả sẽ tác hại lên Kinh tế Việt Nam. Hàng Trung quốc tồn đọng sẽ đổ
xuống Việt Nam để nhờ tái xuất cảng và giết chết Kinh tế Việt Nam. Bạn vàng
Trung quốc sẽ chồng chất lên Việt Nam những hàng tồn đọng, hư thối và độc hại vậy.
Nhiều
doanh nghiệp Châu Âu
muốn
rút khỏi Trung Quốc
Cùng ngày với Phỏng vấn của Cơ quan Truyền thông Pháp, 29.05.2012, theo những
câu hỏi trên đây, thì chúng tôi nhận được Bản Tin của Phóng viên Trọng Thành dựa
trên Tin của AFP nói về những Doanh nghiệp Aâu châu muốn rút khỏi Trung quốc.
Những Doanh nghiệp có thể nhận ra những khó khăn sau đây:
*
Họ thấy rõ những gian lận cạnh tranh bất chính tại lãnh thổ Trung quốc
*
Họ lo sợ rằng với thái độ ngăn chặn của Liên Au và Quốc tế đối với những hàng sản
xuất tại Trung quốc, họ sẽ bị đánh thuế cao hơn khi đem những hàng ấy về Liên
Au hay đi những nước khác, cho dù họ có thể lợi dụng được một chút giá nhân
công rẻ tại nơi sản xuất.
*
Dân chúng Liên Au và những nước khác, vì nạn thất nghiệp tăng quá cao, có thể tẩy
chay những hàng hóa của họ sản xuất từ Trung quốc .
Bản Tin của Phóng viên Trọng Thành viết như sau:
“Hôm nay 29/05/2012, AFP loan tin, 22% doanh nghiệp Châu Âu tại Trung Quốc
muốn rút khỏi quốc gia này, vì giá nhân công cao và hệ thống pháp luật bất ổn.
Điều tra của Phòng Thương mại Châu Âu ở Trung Quốc đối với 557 doanh nghiệp
thành viên đưa ra nhận định : « Trung Quốc là một thị trường mang tính chiến lược,
ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp Châu Âu, nhưng lại có một
tỷ lệ lớn doanh nghiệp Châu Âu muốn tái định hướng đầu tư và rời khỏi Trung Quốc,
nơi giá cả ngày càng đắt đỏ », để chuyển sang các quốc gia đang trỗi dậy khác.
Theo điều tra trên, ba nỗi lo ngại lớn nhất của các doanh nghiệp Châu Âu tại
Trung Quốc là tốc độ phát triển chậm lại (nỗi lo của 65% doanh nghiệp), giá
nhân công tăng (63%) và kinh tế thế giới suy giảm (62%). Riêng về giá nhân
công, 59% doanh nghiệp được hỏi tỏ ra bi quan về tương lai trước mắt, tỉ lệ này
lên đến 75% đối với các doanh nghiệp tại vùng châu thổ sông Châu Giang (khu vực
Quảng Đông - Hồng Kông - Macao).
Ông Davide Cucino, Trưởng Phòng Thương mại Châu Âu ở Trung Quốc, phàn nàn
là, có rất ít tiến bộ trong lĩnh vực pháp lý, liên quan đến các doanh nghiệp.
Theo lãnh đạo phòng thương mại Châu Âu, trong bối cảnh giá nhân công tăng cao,
thì hy vọng được đặt vào môi trường pháp lý sẽ được cải thiện để mang lại công
bằng cho cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay, có tới 50% doanh nghiệp Châu Âu tại
Trung Quốc bị lỡ cơ hội, vì các rào cản pháp lý bất công.
Để tiếp tục tồn tại tại Trung Quốc, 52% trong số các doanh nghiệp được điều
tra dự kiến sẽ đầu tư vào các khu vực mới, đặc biệt là các vùng sâu trong nội địa,
nơi mức lương trả cho nhân công thấp hơn và nơi mà các doanh nghiệp nước ngoài
được khuyến khích. Nhưng trong số 78% doanh nghiệp có thái độ lạc quan về các
hoạt động của công ty trong hai năm tới ở Trung Quốc, thì chỉ có 36% tin tưởng
là họ sẽ gặp được các điều kiện thuận lợi.”
Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam
và những biện pháp vá víu, thậm chí nguy hiểm
Từ cuối năm 2011 và nhất là đầu năm 2012, Ngân Hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và Hội những Nhà Đầu tư đều lên tiếng thôi thúc Việt Nam cũng như Trung
quốc phải Cải tổ tận căn nguyên mô hình Kinh tế đang tụt giốc trầm trọng đà
phát triển của hai nước. Tìm hiểu căn nguyên của tụt giốc Kinh tế, chúng tôi đã
viết nhiều bài nói rằng đó chính là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ phát sinh và lan tràn
như giòi bọ trong Cơ chế chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Cải
tổ tận căn nguyên, tức là dứt bỏ chủ trương Cơ chế như vậy. Nếu Cơ chế vẫn còn
chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế thì giòi bọ vẫn lan tràn ăn
ruỗng Kinh tế. Nếu không dứt bỏ Cơ chế, thì tất cả những biện pháp Chính trị
Kinh tế (Politiques Economiques) chỉ là vá váy đụp hời hợt.
Chúng tôi chờ đợi việc cải tổ mô hình Kinh tế Việt Nam xem có đi vào tận
căn nguyên hay không. Trong tuần này, chúng tôi đọc được Bản Tin về việc hạ Lãi
suất ngân hàng ở Việt Nam như biện pháp Chính trị Kinh tế cứu vãn việc tụt giốc.
Theo phân tích tình trạng khủng hoảng Kinh tế không những tại Việt Nam mà còn
toàn cầu, chúng tôi thấy rằng việc giảm Lãi suất của Việt Nam không những không
phải là biện pháp cứu nguy Kinh tế, mà còn đạp thêm ga để chiếc xe Kinh tế mục
nát CSVN đang tụt giốc lao nhanh hơn vào tử huyệt.
Tình
trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế hiện nay.
Bản Tin của VietBao tuần này tóm tắt tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế
trầm trọng của Việt Nam. Bản Tin viết:
“HANOI — Kinh tế khủng hoảng, dân cạn tiền tới mức nước mắm cũng không mua
nổi.
Trang báo chuyên về kinh doanh VEF loan bản tin nêu rõ trên tựa đề: “Kinh
doanh sụt giảm: Từ ôtô đến nước mắm.”Bản tin VEF cho biết, hàng tồn kho đang là
mối đe dọa lớn nhất đến các DN. Vấn nạn lan tràn từ các ngành công nghiệp lớn
như ô tô, xe máy đến những mặt hàng thiết yếu như… nước mắm. Sản xuất kinh
doanh đang bế tắc và kinh tế chưa thể sớm thoát khó khăn.
“Trao đổi mới đây, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa nhấn mạnh,
vấn đề khó khăn nhất của các DN hiện nay là bí đầu ra. Bây giờ với nhiều mặt
hàng thiết yếu người dân cũng không có tiền mua.”
Thê thảm là nước mắm cũng ứ đọng.
Bản tin VEF ghi nhận từ Hiệp hội nước mắm Nha Trang cho biết, các DN sản xuất
nước mắm tại Nha Trang cũng đang phải giảm sản xuất. Cho dù phải thắt chặt chi
tiêu, người tiêu dùng cũng phải mua nước mắm cho bữa ăn hàng ngày. Vậy mà trên
thực tế, mặt hàng này cũng không tránh khỏi tình trạng tiêu thụ giảm sút. Tại
Nha Trang, có nhiều DN nước mắm phải sản xuất cầm chừng từ đầu năm đến nay,
nguyên nhân không gì khác là sức tiêu thụ chậm, sản phẩm ứ đọng.
Bản tin cho biết, theo bản khảo cứu của Ngân hàng HSBC, kinh tế VN đang cọ
cụm, vì chỉ số PMI đã thấp hơn 50 điểm. Con số trên 50 điểm là tăng.
Bản tin viết, Chỉ số PMI (nhà quản trị mua hàng – Purchasing Managers
Index) tháng 5/2012 do Ngân hàng HSBC công bố cho thấy điều kiện kinh doanh của
ngành sản xuất tại Việt Nam vẫn đang xấu đi. Theo báo cáo này, chỉ số PMI ngành
sản xuất đã giảm từ mức 50 điểm vào tháng 3 xuống còn 49,5 điểm vào tháng 4 và
tiếp tục giảm xuống còn 48,3 điểm trong tháng 5/2012.
HSBC cho biết, những DN tham gia khảo sát cho rằng, nhu cầu trên thị trường
đã giảm khá mạnh do người dân thực hiện tiết kiệm, thắt chặt chi tiêu. Bắt đầu
từ các siêu thị, doanh số giảm đi vì người dân giảm sức mua, siêu thị hạn chế
nhập hàng, khiến cho các nhà sản xuất hàng tiêu dùng cũng phải giảm năng lực sản
xuất, nguồn cung phải giảm nếu không muốn lượng hàng tồn kho tăng lên.
“Hiện nay, tình trạng sản xuất đang giảm được ghi nhận ở hầu hết các ngành hàng
từ dệt – may, giấy, da giày, nhựa, ô tô, xe máy, thép điện tử… Ngành dệt may,
dù bước vào mùa cao điểm trong năm nhưng phần lớn các DN vẫn đang gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm đơn hàng. Hiệp hội Dệt may Việt Nam được biết, trước đây
khi vào mùa vụ, các DN có thể thoải mái lựa chọn đối tác để làm nhưng nay thì
ngược lại. Nhiều DN dệt may lớn, lượng đơn hàng giảm khoảng 5-10% so với cùng kỳ,
còn DN nhỏ có thể thiếu hụt trên 10% đơn hàng.
Các ngành sản xuất khác như: xi măng, thép, ô tô, xe máy, thiết bị điện,
thiết bị xây dựng… thì sản xuất đã giảm quá mạnh từ đầu năm tới nay. Nhiều
ngành hàng giờ chỉ còn sản xuất chừng 50-60% công suất. Những ngành có lượng
hàng tồn kho cao là đường ăn, sắt thép, xi măng, ô tô và xe máy… Đến xăng dầu
cũng tồn kho là 106.000 tấn, cho dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã tạm ngừng hoạt
động để kiểm tra.
Thực tế đang cực kỳ bi thảm, theo lời một nhà quan sát, rằng đây là lần đầu
tiên kể từ thời kỳ đổi mới, dân nghèo tới mức không có tiền mua nước mắm.
Nghĩa là thất nghiệp đã trở thành hiện tựơng quan ngại. (VietBao)
Trong
lúc tụt giốc như vậy, CSVN hạ Lãi suất
như
biện pháp cứu nguy Kinh tế
Bản Tin của SBTN viết:
“Tin Hà Nội - Trở lại với những tin từ Việt Nam, hôm qua Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam ra lệnh cho hệ thống ngân hàng thương mại hạ lãi suất ký thác tiết kiệm
mà Việt Nam gọi là lãi suất huy động, thêm 2% cũng như giảm lãi suất tín dụng
nhằm kích thích nền kinh tế vượt ra khỏi trì trệù. Quyết định giảm lãi suất được
đưa ra sau nhiều báo cáo nói hơn chục ngàn công ty lớn nhỏ tại Việt Nam đã nộp
đơn thông báo ngừng hoạt động chỉ trong mấy tháng đầu năm nay, không kể nhiều
chục ngàn công ty khác ngừng hoạt động nhưng không thông báo.
Khi loan báo giảm lãi suất ở Quốc Hội, nhân vật này biện bạch là lãi suất
quá cao hiện nay không phục vụ nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp. Nền kinh
tế Việt Nam đình đốn khắp nơi vì nhiều công ty không vay được tiền để sản xuất
hoặc kinh doanh. Nhiều công ty cũng không dám vay vì lãi suất tín dụng quá cao.
Chế độ Hà Nội bị buộc phải tăng lãi suất để đối phó với lạm phát nặng nhất
Á Châu theo các khuyến cáo của các nhà tài trợ quốc tế. Tổng sản lượng quốc gia
GDP của Việt Nam chỉ tăng được 4% trong quý đầu năm nay, mức thấp nhất từ 3 năm
qua. Dự trù nền kinh tế chỉ tăng trưởng khoảng 5.2% cho năm nay, theo lời Thứ
trưởng Kế Hoạch và Đầu Tư nói với báo chí trong tuần này. Hành động hạ lãi suất
của nhà cầm quyền Hà Nội tương tự như hành động của nhà cầm quyền Bắc Kinh mới
đây. Bắc Kinh đã không thay đổi lãi suất suốt 4 năm qua.(SBTN) (Posted on 13
Jun 2012)
Từ
nhận định sai lầm về tình trạng tụt giốc Kinh tế
đến
quyết định vá víu, thậm chí nguy hiểm, của biện pháp Tài chánh
CSVN ngoài lý do căn bản tụt giốc Kinh tế của Cơ chế CSVN hiện hành mà
chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh trong nhiều bài viết, đó là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
ăn ruỗng những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, chúng tôi muốn phân tích những lý
do đang làm độ phát triển Kinh tế chỉ còn 5.2% và tình trạng tồn đọng hàng hóa
sản xuất khiến các xí nghiệp, cả quốc doanh lẫn tư doanh, phải từ từ đóng cửa.
Khi phân tích kỹ những lý do này, người ta sẽ thấy ngay rằng biện pháp hạ Lãi
suất của CSVN chỉ là vá víu, thậm chí còn làm tăng tốc độ tụt giốc của Kinh tế
VN.
Phân tích những lý do tụt giốc
Kinh tế Việt Nam cũng như Trung quốc lệ thuộc vào xuất cảng. Tình trạng co cụm
sản xuất và và hàng hóa ứ đọng tồn kho là do luật CUNG và CẦU. Chính phía CẦU
là động lực cho sản xuất (CUNG). Phía CẦU lệ thuộc chính yếu vào Mãi lực tiêu
thụ. Nhìn như vậy, chúng ta thấy những lý do trực tiếp sau đây làm tụt giốc
Kinh tế VN và TQ:
=>
Tình trạng khủng hoảng Kinh tế của hai Thị trường lớn như Hoa kỳ và Liên Aâu
làm cho Thất nghiệp tăng vọt. Mãi lực của dân chúng Hoa kỳ và Liên Aâu giảm hẳn
xuống. Do đó việc đặt mua hàng Trung quốc và Việt Nam tất nhiên giảm xuống và
làm cho hàng hóa TQ và VN không xuất cảng nổi để phải tồn đọng. Thêm vào
đó, Nợ công của Hoa kỳ và Liên Aâu khiến hai khối Thị trường này phải đưa ra những
biện pháp tiết kiệm, nghĩa là giảm tiêu thụ. Thất nghiệp làm Mãi lực dân chúng
giảm và Nợ công khiến các quốc gia phải tiết kiệm. Tất cả trong chiều hướng cắt
đi phía CẦU những hàng hóa sản xuất từ Trung quốc và Việt Nam.
=>
Mãi lực dân chúng nội địa của Trung quốc và Việt Nam rất ít ỏi để có thể trợ lực
cho phía CẦU nội địa. Trong khi ấy, vì muốn bảo vệ danh dự của Cơ chế, Trung quốc
và Việt Nam gồng mình giữ độ phát triển và mức CUNG dồi dào. Mãi lực quốc tế giảm
và Mãi lực nội địa không có, thì khó lòng giữ thăng bằng được giữa CUNG và CẦU.
Do đó hàng tồn kho là hậu quả.
=>
Các Thị trường lớn Hoa kỳ và Liên Aâu nay đã ý thức rằng tình trạng Thất nghiệp
tại nước họ là do hậu quả của việc lan tràn hàng hóa Trung quốc. Chính vì vậy,
để bảo vệ cho sản xuất của chính mình, Hoa kỳ, nhất là Liên Aâu đưa ra những Biện
pháp Bảo Hộ Mậu dịch. Đây là việc càng làm giảm thiểu đi phía CẦU nhập cảng
hàng từ Trung quốc và Việt Nam.
=>
Đặc biệt Việt Nam, ngoài việc giảm CẦU do Mãi lực tiêu thụ quốc tế và quốc nội,
Việt Nam còn bị hàng tồn đọng từ Trung quốc tràn xuống để giết chết sản xuất tại
sân nhà. Để cứu sản xuất nội địa, các quốc gia phải ngăn cản nhập cảng hàng nước
ngoài, trong khi ấy, Việt Nam bị tràn ngập hàng Trung quốc để cạnh tranh với
chính hàng sản xuất nội địa.
Phân tích những lý do gắn liền với Mãi lực và phía CẦU như vậy, chúng ta mới thấy
rằng Biện pháp Giảm Lãi xuất của CSVN chỉ là vá víu, thậm chí còn làm tăng tốc
độ tụt giốc Kinh tế nữa.
Vá víu của việc giảm Lãi suất
Theo Bản Tin của SBTN về quyết định giảm Lãi suất, Ngân Hàng Nhà Nước VN đã
nhìn sai lầm về những lý do làm tụt giốc Kinh tế:
“Khi loan báo giảm lãi suất ở Quốc Hội, nhân vật này biện bạch là lãi suất
quá cao hiện nay không phục vụ nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp. Nền kinh
tế Việt Nam đình đốn khắp nơi vì nhiều công ty không vay được tiền để sản xuất
hoặc kinh doanh. Nhiều công ty cũng không dám vay vì lãi suất tín dụng quá
cao.”
Ngân Hàng Nhà Nước cố tình cắt nghĩa việc tụt giốc là thiếu vốn vì lãi suất
quá cao, mà không nhìn những lý do thuộc Kinh tế, đó là việc giảm CẦU từ quốc tế
đến quốc nội. Vì cố tình nhìn sai lầm về những lý do tụt giốc Kinh tế, nên Ngân
Hàng Nhà nước đưa ra biện pháp Tài chánh là giảm Lãi suất, nghĩa là Giá Tín dụng
rẻ để các xí nghiệp có thể vay vốn tăng sản xuất (CUNG). Những lý do làm tụt giốc
Kinh tế là từ phía CẦU chứ không từ phía CUNG. Ngân Hàng đã tuyên bố một cách
dõng dạc trong nhận định sai lầm của mình:
“Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ra lệnh cho hệ thống ngân hàng thương mại hạ
lãi suất ký thác tiết kiệm mà Việt Nam gọi là lãi suất huy động, thêm 2% cũng
như giảm lãi suất tín dụng nhằm kích thích nền kinh tế vượt ra khỏi trì trệ.”
Như vậy, theo Ngân Hàng Nhà Nước, việc giảm Lãi xuất tín dụng là “nhằm
kích thích nền kinh tế vượt ra khỏi trì trệ”. Bài học giảm Lãi suất để
giá vốn rẻ mà kích thích đầu tư sản xuất là bài học áp dụng cho những nước đã
có sẵn Thị trường Tiêu thụ quốc tế cũng như quốc nội. Bài học này áp dụng cho
Kinh tế Việt Nam không những không có hiệu quả mà có thể còn sai trật vì Thị
trường Tiêu thụ nước ngoài mình không làm chủ được và Thị trường Tiêu thụ trong
nước bị cạn kiệt Mãi lực.
Cái nguy hiểm của tăng vốn sản xuất (CUNG)
Cuộc đại Khủng hoảng Kinh tế 1929-30 là hậu quả của việc sản xuất quá nhiều
sau khi các xí nghiệp thi nhau đầu tư cơ giới hóa sản xuất. Chính là khủng hỏa
của SURPRODUCTION. Hàng hóa được sản xuất quá nhiều, nghĩa là CUNG tăng vọt, mà
tiêu thụ yếu kém đi, nghĩa là CẦU giảm xuống.Tình trạng chênh lệch CUNG—CẦU này
đã dẫn đến cơn xoáy Giảm giá (Spirale déflationniste) khiến các xí nghiệp thay
vì tăng sản xuất, phải thiêu hủy đi những hàng đã sản xuất và tồn kho. Biện
pháp Kinh tế mà KEYNES đề nghị cho thời này là phải làm hết cách để tăng Mãi lực
Tiêu thụ (CẦU), chứ không phải là tăng sản xuất (CUNG).
Việc Trung quốc sản xuất quá nhiều đang làm Thế giới lo ngại một tình trạng
giảm giá dẫn đến cơn xoáy giảm giá làm sạt nghiệp phía sản xuất.
Những lý do tụt giốc Kinh tế Việt Nam là từ phía CẦU, trong khi ấy Ngân
Hàng Nhà Nước muốn cứu tụt giốc, lại hành động tăng phía CUNG, nghĩa là tăng vốn
cho các xí nghiệp sản xuất nhiều thêm nữa để cuối cùng dẫn đến tình trạng hàng
tồn kho chất chồng không bán được để các xí nghiệp phải hốt đổ đi trước khi
đóng cửa xí nghiệp. Chúng tôi cũng xin thêm rằng phần lớn những xí nghiệp là quốc
doanh. Khi mà tăng vốn sản xuất cho các xí nghiệp quốc doanh bằng hạ Lãi xuất,
thì những vốn tăng thêm, thay vì sản xuất, lại thất thoát do THAM NHŨNG, LÃNG
PHÍ như Vinashin, Vinalines… mà Nhà nước không thu lại vốn được.
Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
14.06.2012. Cập nhật 28.06.2012
BÁO CHÍ TRONG NƯỚC:
CSVN ĐÃ ĐI VÀO TỬ HUYỆT KT.
Nguyễn Phúc Liên CHÚ
THÍCH:
Chúng tôi đã viết nhiều về Mô hình
Kinh tế Chỉ huy Tập quyền và Mô hình Kinh tế định hướng XHCN hay nói đúng hơn
mô hình Kinh tế lấy Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Những mô hình
Kinh tế Mafia này tự dẫn đến TỬ HUYỆT KINH TẾ.
Cách đây 3 năm, tại Bắc Kinh Ông
ZOELLICK,Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới đã họp báo yêu cầu Bắc Kinh phải cải tổ
mô hình Kinh tế tự CĂN NGUYÊN. Bà LAGARDE, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế,
cũng đòi hỏi Bắc Kinh phải làm như vậy.
Tại Hà Nội, trước cảnh tụt dốc Kinh tế
của Việt Nam, cuộc Họp các Nhà Đầu tư quốc tế cũng yêu cầu Hà Nội phải cải tổ
mô hình Kinh tế tận CĂN NGUYÊN. Các Chuyên gia Kinh tế như Bà PHẠM CHI LAN,
Tiến sĩ LÊ ĐĂNG DOANH, Tiến sĩ NGUYỄN QUANG A… cũng đồng lên tiếng về đà phá
sản Kinh tế mà nguyên do là HỆ THỐNG.
Cải tổ tự CĂN NGUYÊN ở đây có nghĩa
là phải dẹp bỏ cái CƠ CHẾ chủ trương “ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ NẮM ĐỘC QUYỀN KINH TẾ“.
CSVN không dám làm điều này mà chỉ cải
tổ theo kiểu thoa bóp dầu cù là cho an dân, vì đảng còn muốn giữ quyền hành
và nắm chặt túi vàng để ăn cướp tiền chung cho túi riêng từng người.
Sự bất lực cải tổ từ CĂN NGUYÊN Cơ chế
sẽ đưa CSVN vào TỬ HUYỆT như một Định Mệnh lù lù tới vậy.
Bài báo dưới đây của báo TUỔI TRẺ cho
thấy, tại cuộc họp của ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ngày 14.05.2013, các nhân vật
lãnh đạo Kinh tế CSVN thấy đảng đang đứng chênh vênh cạnh Định mệnh TỬ HUYỆT
KINH TẾ !
Nguyễn Phúc Liên
Tình hình kinh tế
gay go lắm rồi!
Tuổi Trẻ – Thứ
tư, ngày 15 tháng năm năm 2013
TT - Đó là nhận xét của Phó
chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày 14-5 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính -
ngân sách về tình hình kinh tế - xã hội và thu ngân sách những tháng đầu năm
2013.
Tiền huy động tăng nhưng dư
nợ tín dụng thấp, doanh nghiệp cũng không mặn mà vay khi hàng hóa tồn kho lớn
là những khó khăn lớn của nền kinh tế lúc này
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000
doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có
thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn
thẳng vào tình hình khó khăn của đất nước để giải quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc
hội này mà không đưa ra được giải pháp đủ mạnh thì những khó khăn sẽ thêm trầm
trọng”.
Khó khăn ngày càng lớn
"Tình hình đúng là hết
sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục
nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng
phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn Xuân Cường (phó
trưởng Ban Kinh tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế
ngày càng rõ nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp
nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng
hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế
đánh giá.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
Nguyễn Văn Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng
chưa đem lại kết quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng trưởng bị giới hạn bởi
thâm hụt ngân sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền
kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Ba tháng đầu năm, số lượng
doanh nghiệp thành lập mới là 15.700 doanh nghiệp (giảm 6,8% về số lượng, giảm
16% về vốn so với cùng kỳ năm trước); trong khi đó số doanh nghiệp ngừng hoạt
động, giải thể là 15.300 (tăng 14,6% so với quý 1-2012).
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định: sức mua của nền kinh tế khó có
thể tăng mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi việc làm và thu nhập của người
lao động giảm sút, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp khó khăn, số lượng
doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giải thể và phá sản nhiều, tồn kho vẫn ở mức
cao.
Tăng trưởng tín dụng có thể
sẽ khó tăng cao trong ngắn hạn và thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tiền
gửi tại các tổ chức tín dụng nếu nợ xấu không sớm được giải quyết, các ngân
hàng thương mại không có các giải pháp hữu hiệu phân loại đối tượng cho vay
mà vẫn siết chặt điều kiện cho vay sẽ ảnh hưởng đến phục hồi nền kinh tế. “Nếu
các khó khăn nêu trên không được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như mục tiêu
Quốc hội đề ra cho năm 2013 là rất khó khăn” - ông Vinh nói.
Ông Nguyễn Xuân Cường - phó
trưởng Ban Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại,
tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức
tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá
sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó
khăn đến mức nào”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng phán đoán: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới một trăm
nghìn doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp
lỗ có thể còn hơn 65%”.
Các con số chưa đáng tin cậy
Tăng cường công tác nắm bắt,
phân tích, dự báo tình hình để có chủ trương, đối sách phù hợp, đặc biệt là
các vấn đề biên giới, biển đảo, thực hiện các đề án, giải pháp bảo đảm an
ninh, trật tự tại các vùng chiến lược. Cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối
với ngư dân đánh bắt cá ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ
quyền của nước ta.
Lấy con số dư nợ tín dụng
ngân hàng từ đầu năm chỉ tăng hơn 1%, trong khi huy động tiền gửi tăng 5,5%,
Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan khẳng định “tiền tệ đã đóng băng, tình hình
như thế này là nguy lắm rồi”.
Bà nói: “Doanh nghiệp không
tiếp cận được nguồn vốn thì không giải quyết được vấn đề gì đâu. Bây giờ
doanh nghiệp nợ như thế thì có khoanh nợ, giãn nợ, cho vay tiếp không? Phải tập
trung bàn về chính sách tiền tệ, giải quyết dòng vốn ra vào, đây là nút thắt”.
Trong khi đó, Chủ nhiệm Văn
phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đề cập đến thực trạng “ngân hàng lúc nào cũng
tuyên bố là sẵn sàng cho vay, nhưng doanh nghiệp nói là muốn vay đâu có dễ,
đang nợ thì không thể vay được mà lãi suất cho vay vẫn cao nên chỉ có nước
phá sản”.
Ngoài việc khai thông nút thắt
tiền tệ, Phó chủ tịch nước đề nghị tập trung vào giải pháp thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí: “Phải mạnh dạn cắt giảm, thậm chí xóa bỏ những chương trình
không cần thiết. Tôi thấy tình trạng chồng chéo, lãng phí, cái gì cũng dang dở,
bộ nào cũng muốn nắm một tí tiền. Chúng ta cần nhìn thẳng vào những khó khăn
của đất nước, tiết kiệm chi tiêu công, dừng mua sắm xe công, phương tiện đắt
tiền, giảm đi nước ngoài...”.
Một số thành viên Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ “nghiêm túc và thật thà” trong các con số báo
cáo. “Báo cáo của Chính phủ cho thấy tỉ lệ nghèo vẫn giảm nhanh. Tại sao kinh
tế khó khăn như vậy, doanh nghiệp đình đốn, công nhân mất việc, sản xuất ra
không bán được hàng hóa mà lại giảm nghèo tốt như vậy? Tôi xuống thực tế thấy
nghèo tăng lên chứ không có giảm” - Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn nói.
Ông Nguyễn Văn Giàu kể thêm:
“Hoàn thuế VAT hôm trước nói 20.000 tỉ, mới có vài ngày mà hôm nay nói là
33.000 tỉ. Không thể tưởng tượng được!”. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước
đề nghị các bộ, ngành hãy nhìn vào khó khăn của đất nước mà báo cáo đúng tình
hình, đừng đưa ra các con số báo cáo “vì cái ghế của mình”.
Dầu khí cứu ngân sách
Báo cáo của Chính phủ cho thấy
thu ngân sách nhà nước năm 2012 tăng hơn 2.600 tỉ đồng (tỉ lệ tăng thu thấp
nhất trong nhiều năm gần đây), chủ yếu nhờ vào thu từ dầu thô và thu viện trợ
không hoàn lại.
Đặc biệt, thu từ dầu thô vượt
dự toán cao nhờ vào cả hai yếu tố giá và sản lượng đều tăng, đồng thời phát
sinh 9.800 tỉ đồng từ khoản thu lãi nước chủ nhà năm 2012 và 10.000 tỉ đồng
lãi dầu khí được chia cho nước chủ nhà từ năm 2006-2011.
Vì vậy, thu từ dầu thô tăng hơn 53.000 tỉ đồng so với
dự toán. Ủy ban Tài chính - ngân sách cho rằng nếu không có số thu thêm từ
lãi dầu khí nước chủ nhà từ các năm trước thì ngân sách nhà nước năm 2012 sẽ
hụt thu, mất cân đối, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi.
Tình hình thu ngân sách nhà nước năm 2013 được dự
báo còn căng thẳng hơn. Bốn tháng đầu năm mới ước đạt hơn 244.000 tỉ, bằng
29,9% dự toán.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn
Công Nghiệp thừa nhận tình trạng căng thẳng trong việc đảm bảo nhiệm vụ thu
năm 2013, “nhiều ý kiến cảnh báo về khả năng hụt thu”. Do đó, Ủy ban Tài
chính - ngân sách đề nghị phải triệt để tiết kiệm, cắt giảm các khoản chi
không hợp lý, tiếp tục rà soát các dự án đầu tư công, tinh giản biên chế... để
đảm bảo cân đối thu chi, an toàn ngân sách.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính -
ngân sách Phùng Quốc Hiển cho biết năm nay sẽ không còn trông chờ được vào dầu
khí nữa vì sản lượng ổn định và giá dự toán đã ở mức 90 USD/thùng.
Kết thúc cuộc thảo luận, Phó
chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện
báo cáo để trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới. “Chưa đặt vấn đề điều chỉnh
chỉ tiêu tăng trưởng, thu ngân sách..., nhưng nên lường trước tình huống cho
kịch bản xấu nhất để xử lý tình hình” - bà Ngân gợi ý.
* TS Lê Thẩm Dương (trưởng
khoa quản trị kinh doanh ĐH Ngân hàng TP.HCM):
Chỉ rối phải gỡ từ từ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tăng trưởng tín dụng chậm hiện nay, về phía doanh nghiệp đó là do hàng tồn
kho. Chính vì hàng tồn nên dù lãi suất thấp họ cũng không vay vì sản xuất ra
bán cho ai? Bốn tháng đầu năm tình trạng hàng tồn vẫn chưa gỡ được bao nhiêu.
Còn về phía ngân hàng (NH) do áp lực nợ xấu. Thời gian qua NH đã nỗ lực xử lý
nợ xấu bằng cách bán tài sản đảm bảo, trích dự phòng... nhưng nợ xấu vẫn cao
khiến NH nhát tay trong xét cho vay.
Với những vấn đề hiện nay, nếu
để NH và doanh nghiệp tự giải quyết với nhau thì sẽ không bao giờ giải quyết
được vì có tình trạng như hiện nay còn có nguyên nhân từ nền kinh tế. Cơ quan
quản lý phải xắn tay cùng với NH và doanh nghiệp trong việc ban hành và thực
thi các chính sách tháo gỡ khó khăn, củng cố niềm tin, củng cố thị trường
trong nước, làm ấm thị trường bất động sản... Về phía NH, phải hạ dần lãi suất
đầu ra, đa dạng hóa tài sản đảm bảo, nâng dần tỉ lệ cho vay tín chấp. Phần
doanh nghiệp cũng phải khắc phục những vướng mắc thì mới giải quyết được các
vấn đề khó khăn hiện nay.
* PGS.TS Trần Hoàng Ngân
(phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM):
Cần ủy ban khẩn cấp ngăn chặn “dịch” phá sản
Dư nợ tín dụng từ đầu năm đến
nay có tăng nhưng ở mức độ thấp: 1,44%. Đây chính là điều đáng lo ngại. Mặt
khác, số lượng doanh nghiệp phá sản ba năm qua liên tục theo chiều hướng gia
tăng kéo theo số nợ xấu tăng thêm...
Thời gian qua, nhiều chính
sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc
sống vì nhiều lý do. Theo tôi, đã đến lúc cần lập một ủy ban khẩn cấp để ngăn
chặn “dịch” phá sản của doanh nghiệp. Ủy ban này sẽ đứng ra để trực tiếp giải
quyết những vấn đề của doanh nghiệp hiện nay. Còn thời gian qua, giải quyết
khó khăn nhưng cơ quan quản lý chỉ kêu gọi một chiều NH giảm lãi suất cho
doanh nghiệp, nhưng khi NH giảm lãi suất thì doanh nghiệp cũng không thể tiếp
cận được vốn. Chưa kể NH, doanh nghiệp mỗi nơi nói một kiểu, rốt cuộc chính
sách được ban ra nhưng vướng mắc vẫn còn nguyên không giải quyết được.
ÁNH HỒNG ghi
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching