Lương tâm dân Nhật về việc bán kỹ
thuật điện hạt nhân cho Việt Nam
Ngô Văn
Cùng tác giả:
- Mẫu
mực chống tham nhũng sắp áp dụng tại Việt Nam
- Nước
tí hon Bhutan khôn ngoan hơn Việt Nam?
- Con
Người Mới XHCN ở đâu cũng thế
1. Lại rò rỉ nước nhiễm phóng xạ ở Fukushima
Sau khi tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima xảy ra
(11/03/2011) thì vùng biển ở tỉnh này cũng như các tỉnh lân cận bị nhiễm phóng
xạ trên mức quy định nên ngư dân ở đó không hành nghề được. Tổng công ty điện
lực Tokyo cũng như chính phủ Nhật đều cam kết sẽ dồn nỗ lực giải quyết vấn đề.
Sau gần hai năm, mức độ nhiễm phóng xạ ở vùng biển Đông Bắc Nhật dần dần sạch
phóng xạ và khi đến mức an toàn theo quy định thì ngư phủ ở tỉnh Ibaragi kế bên
Fukushima bắt đầu hành nghề, nhưng cá đánh lên phải qua khâu kiểm phóng xạ mới
được đem bán. Ngành Ngư nghiệp tỉnh Fukushima tuy còn phải chờ thêm một thời
gian nữa, nhưng ai nấy đều đầy hy vọng vì mức độ nhiễm phóng xạ của nước biển
ngày một giảm.
Tuy chưa đánh cá được, nhưng với mức độ phóng xạ đo được trong
nước biển vào ngày 26/06/2012, thì ngư dân có thể bắt đầu thả bào ngư xuống biển
để nuôi (và chờ 4 năm sau thu hoạch). Ngư phủ ở Fukushima tái khởi nghiệp bằng
việc thả xuống biển nuôi 2 vạn con bào ngư.
Mọi chuyện đang tiến hành khá tốt đẹp thì vào giữa tháng 8/2013,
nồng độ phóng xạ đo được trong nước biển ở Fukushima bỗng nhiên tăng lên đến
mức báo động. Ai cũng biết tác nhân gây ra không ai khác hơn là nhà máy điện
hạt nhân Fukushima nên dân chúng kéo đến hỏi cho ra lẽ.
Lúc đầu Ban Giám đốc
điều hành tổng công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) phủ nhận chuyện nước nhiễm phóng
xạ chứa trong các bồn chứa lớn tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima rò rỉ ra
biển, và chỉ hứa là sẽ gởi chuyên gia đến hiện trường kiểm chứng ngay.
Tưởng nên nhắc lại là trong khi nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Dai ichi bị tai nạn sóng thần vào tháng 3/2011, giới thẩm quyền đã phải sử dụng
một lượng lớn nước biển, chừng 300 ngàn tấn, để làm giảm nhiệt lò phản ứng.
Lượng nước khổng lồ này sau đó được chứa trong khoảng 1000 bồn chứa lớn dựng
ngay trong khuôn viên nhà máy.
Thật ra TEPCO đã biết về hiện tượng rò rỉ từ tháng 7/2013. Theo
các dữ kiện mới được tiết lộ thì vào khoảng thời gian đó, TEPCO đã phát hiện
một số bồn chứa nước bị nghiêng do độ lún của mặt đất. Hậu quả là có một số
nước nhiễm phóng xạ bị rò rỉ ra bên ngoài.
TEPCO tuy đã tức tốc cho xây thêm
một số bồn mới để chuyển số nước trong các bồn bị nghiêng đi. Tuy nhiên, nay họ
vẫn bị phê phán là "vô trách nhiệm" vì đã không cho người đi kiểm tra
toàn bộ 1000 bồn chứa, mà chỉ tìm cách bít lại tạm thời những bồn đã nghiêng
quá rõ cho đến lúc xây thêm bồn mới.
Tổng giám đốc TEPCO lại một lần nữa phải cúi đầu xin lỗi dân chúng
và hứa sẽ tìm cách khắc phục. Bộ trưởng Kinh tế & Công nghiệp đã tức tốc
bay đến hiện trường thị sát và chỉ thị cho các giới chức hữu trách phải tìm
cách chận đứng tình trạng rò rỉ này ngay. Và tiền thuế của dân lại phải đổ thêm
nữa vào cho nhà máy điện hạt nhân Fukushima.
Cùng lúc Ủy ban Quy chế Nguyên tử lực Nhật Bản gởi chuyên gia đến
thẩm định nồng độ nhiễm phóng xạ của nước biển quanh vùng Fukushima. Kết quả
được công bố là đã lên tới mức nguy hiểm cho con người — cấp 3 trong tổng số 7
cấp.
Các chuyên gia quốc tế còn lo ngại rằng nếu nước nhiễm phóng xạ trong các
bồn chứa rò rỉ thấm vào lòng đất rồi sau đó từ từ chảy ra biển thì không có
cách nào ngăn chận lại được. Đó là chưa kể mối đe dọa của một cơn động đất khác
làm nghiêng đổ hay tan vỡ các bồn chứa nước này.
2. Dân Nhật làm phim báo động và phản đối việc bán kỹ thuật điện
hạt nhân cho VN
Càng ngày, dân Nhật càng chán ngán các nhà máy nguyên tử, đặc biệt
là các nhà máy gần bờ biển. Họ gọi đây là các "của nợ". Và chính
trong tình cảnh chưa biết giải quyết các "của nợ" này thế nào - cứ
bịt chỗ này lại thủng chỗ khác - mà ngày càng nhiều tổ chức NGO tại Nhật phản
đối mạnh mẽ việc xuất cảng kỹ nghệ điện hạt nhân của Nhật sang Việt Nam.
Đáng chú ý nhất gần đây là sự ra đời của cuốn phim Shinobiyoru
Genpatsu, tạm dịch là Điện hạt nhân âm thầm đến của đạo diễn Nakai. (Xem
xong cuốn phim thì ai cũng biết Điện hạt nhân đang âm thầm đến đâu). Cuốn phim
được trình chiếu tại Liên hoan Điện ảnh Á châu ở Fukuoka vào tháng 7/2013 và đã
thu hút sự chú ý của nhiều giới.
Chủ điểm của phim là sự kiện chính phủ Nhật
đang "xuất cảng những nguy hiểm và khổ đau của người dân Fukushima sang Việt
Nam". Dù với trình độ kỹ thuật cao và đông đảo như lực lượng chuyên gia điện
hạt nhân của Nhật, các hiểm họa vẫn quá lớn và vượt quá khả năng chống đỡ của
trình độ công nghệ hiện nay. Hậu quả là cái giá kinh khủng cho dân chúng quanh
các nhà máy điện hạt nhân, cho cả nước, và cho toàn vùng lân cận.
Đoàn quay phim của đạo diễn Nakai đã sang Việt Nam phỏng vấn một
số người dân tại Ninh Thuận, Phan Rang, nơi đang có kế hoạch xây 2 lò nguyên tử
và cũng rất gần bờ biển. Ông Nakai muốn biết người dân Ninh Thuận nghĩ gì về
điện hạt nhân để so sánh với người dân Fukushima.
Các câu trả lời mang những ý
chính sau đây: "Nghe nhà nước nói thiếu điện nên cần phải xây nhà máy phát
điện hạt nhân"; "Nhà nước nói Nhật xây thì an toàn tuyệt đối";
"Nhà nước hứa sẽ đền bù thỏa đáng và sẽ cho công ăn việc làm tại nhà máy
điện hạt nhân Ninh Thuận khi xây xong"; "Nhà nước đã ra lệnh giải tỏa
mặt bằng thì chẳng ai dám phản đối"; .... Trong số những người được phỏng
vấn, chỉ có một cụ già thuộc gia đình liệt sĩ nhất quyết không chịu di dời vì
bảo rằng đây là đất đai của dòng họ để lại nên phải ở để gìn giữ.
Đạo diễn Nakai cũng nhắc lại những công trình xây dựng của Nhật
tại Việt Nam trong quá khứ đã bị rút ruột và để lại hậu quả nghiêm trọng như vụ
xập cầu Cần Thơ, vụ hối lộ ông Huỳnh Ngọc Sĩ trong dự án đại lộ Đông Tây ở Sài
Gòn, v.v... Từ những kinh nghiệm thực tế đó, cuốn phim kết luận với tình trạng
tham nhũng như hiện nay, xây nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận là một việc làm
quá nguy hiểm.
Phản ứng đầu tiên của nhà cầm quyền Hà Nội sau khi phim Điện
hạt nhân âm thầm đến ra mắt ở Fukuoka là cấm đạo diễn Nakai và những chuyên
gia cộng tác với ông không được đến Việt Nam nữa.
Hình hái nho ở Ninh Thuận trên bìa dĩa DVD có tên Shinobi Yoru
Genpatsu, tức Điện hạt nhân âm thầm đến.Trong thời gian ngắn trước mặt,
phim này sẽ có phụ đề Việt ngữ.
Điện hạt nhân tiếp tục bị chỉ trích nhân dự án Đà Lạt
Điện hạt nhân và hiểm họa khó kiểm soát (DR)
Trung tuần tháng 8/2013, báo chí trong nước đưa tin về phản ứng lo
ngại của chính quyền tỉnh Lâm Đồng đối với dự án xây dựng một cơ sở hạt nhân
cách trung tâm thành phố Đà Lạt 10 km. Nhìn nhận về nỗi lo ngại trước dự án hạt
nhân Đà Lạt – một mắt xích cơ bản trong chủ trương chuẩn bị nhân lực cho các
nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) tương lai của Việt Nam – là một dịp trở lại với các
câu hỏi : Liệu lựa chọn năng lượng hạt nhân có thực sự hữu ích ? Và trong
trường hợp bất khả kháng, cần phải hành động như thế nào để ĐHN không trở thành
một thảm họa ?
Về chủ đề này, Tạp chí Khoa học RFI trước hết xin giới thiệu với
quý vị tiếng nói của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn của Nha Kinh tế -
Dự báo - Chiến lược của tập đoàn điện lực Pháp EDF. Từ mươi năm nay, Giáo sư
Nhẫn dành rất nhiều tâm lực đặc biệt cho việc nghiên cứu về vấn đề ĐHN và năng
lượng nói chung, nhằm đưa ra những tư vấn mang tính cảnh báo về nguy cơ của
việc theo đuổi con đường phát triển ĐHN một cách mù quáng.
|
RFI : Theo tin trong nước, Việt Nam đang
có dự án xây cất Trung tâm nghiên cứu hạt nhân ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, trị giá
nửa tỷ USD, do Nga giúp đỡ công nghệ. Giáo sư đã từng nhiều lần lên tiếng về
chương trình ĐHN của Việt Nam. Vậy xin Giáo sư cho biết quan điểm về Trung tâm
này ?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn : Vì tôi hoàn toàn không đồng ý với chương trình ĐHN của Việt
Nam, tôi rất tiếc phải nói rằng việc xây cất Trung tâm hạt nhân ở Đà Lạt, gắn
liền với chương trình này, là không cần thiết lắm, phí tiền của dân mà không
đem lợi ích gì cho nước nhà. Lẽ cố nhiên, đối với Viện Năng lượng nguyên tử, có
trách nhiệm lớn trong chương trình ĐHN, tôi thông cảm với những lý do mà ông
Viện trưởng, TS Trần Chí Thành, đã đưa ra. Theo ông Viện trưởng, thì Trung tâm
có bổn phận phục vụ các nhà khoa học, các trường đại học và các cơ sở liên quan
đến việc khai thác các nhà máy ĐHN.
Ta không có nhân lực thì phải có cơ sở để làm thí nghiệm và đào
tạo một số cán bộ ở trong nước, chứ không thể hoàn toàn ỷ lại ngoại quốc, điều
ấy dễ hiểu thôi, không có gì đáng trách móc lắm.
Điện hạt nhân đã lỗi thời và rất nguy hiểm
Vì thế trước tiên, cho phép tôi trả lời câu hỏi chính là : Tại sao
tôi không ủng hộ chương trình ĐHN ?
Từ 10 năm nay, qua trên 40 bài tôi viết và trả lời phỏng vấn, tôi
đã có dịp trình bày những lý do tại sao Việt Nam không nên làm ĐHN.
Tôi xin vắn tắt lại như sau : ĐHN đã lỗi thời, không an toàn, rất
nguy hiểm cho hàng chục thế hệ con cháu sau này. ĐHN không kinh tế như người ta
tuyên truyền láo, nó sẽ đắt hơn năng lượng tái tạo, khi ta xây cất xong các nhà
máy. Hiện nay giá thành điện gió ở Âu Châu đã cạnh tranh được rồi.
Điện Hạt Nhân – ĐHN - là Điện Hại Nước, Điện Hại Non. Non Nước và
dân ta có tội gì đâu, mà phải sống trong sự đe dọa thường trực của phóng xạ
giết người, gây bệnh hoạn suốt đời, sau biết bao tang thương của những cuộc
chiến tranh tàn ác để lại. Vì một chiến lược sai lầm, không phù hợp với cuộc
cách mạng năng lượng thế giới đang diễn ra (smartgrid, Năng lượng tái tạo, tiết
kiệm và hiệu quả năng lượng...), nếu rủi ro, trong chớp nhoáng, Việt Nam có thể
bị điêu tàn, kinh tế sụp đổ, ngành du lịch, xuất khẩu tê liệt !
Trở lại vấn đề dự án Trung tâm hạt nhân Đà Lạt. Tại Hội nghị Khoa
học và công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 10 vừa diễn ra tại Vũng Tàu, ông Lê
Đình Tiến - Thứ trưởng Bộ KHCN - phát biểu như sau : Chúng ta đang thiếu nhân
lực, cán bộ năng lượng nguyên tử, cán bộ giỏi về ĐHN. Hiện nay, các cán bộ
trong nước đang gặp khó khăn trong việc thẩm định kết quả tư vấn cho hai nhà
máy ĐHN ở Ninh Thuận do chúng ta đang rất thiếu chuyên gia, thiếu đội ngũ làm
việc cho cơ quan pháp quy để đảm bảo an toàn an ninh cho hạt nhân, thiếu đội
ngũ cán bộ xây dựng nhà máy ĐHN. Việc quản lý chất thải nhà máy ĐHN cũng đang
là vấn đề quan trọng đang tranh cãi chưa đưa ra được hướng đi.
Như thế thì tại sao ta phải xây dựng cấp bách nhà máy ĐHN ở Ninh
Thuận ? Rồi xây tiếp một loạt 14 lò đến năm 2030 ? Chưa gì mà có người đã hãnh
diện cho Việt Nam, sẽ được xếp vào hàng thứ 15 trong số 33 nước có ĐHN trên thế
giới !
Đầu tư khổng lồ, kết quả mờ mịt
Trên nguyên tắc, với 500 triệu đôla, ta có thể cấp ít nhất 50.000
học bổng cho các kỹ sư đã tốt nghiệp, du học ở ngoại quốc, khỏi cần xây cất
Trung tâm này. Tuy nhiên, nếu làm 14 lò với tham vọng xây dựng nền tảng cho một
công nghiệp hạt nhân, thì sẽ cần thêm hàng chục tỷ đô la để đầu tư vào nhiều cơ
sở nghiên cứu khác, một Trung tâm có nghĩa lý gì ?
Diện tích đất trong dự án (Đà Lạt) lên đến 107 ha, tha hồ mà xây
cất. Càng nhiều Trung tâm như vậy, giá điện càng tăng nhanh !
Nên biết rằng trước khi EDF (Electricité de France – Công ty điện
lực quốc gia Pháp) bắt đầu xây cất các nhà máy ĐHN vào năm 1957, Pháp đã có lò
Zoe – EL1 (1948), EL2 (1952). Sau đó, liên tiếp từ 1956 trở đi đến 1978, Pháp
không ngừng xây cất gần 30 lò nghiên cứu và đào tạo, rải rác ở nhiều Trung tâm
của CEA. Hiện nay chỉ 15 lò nghiên cứu còn hoạt động.
Như thế có nghĩa là, nếu ta quyết tâm chọn con đường hạt nhân, đầy
chông gai hiểm trở, theo tôi, hoàn toàn bế tắt, thì ta sẽ phung phí hàng chục,
rồi hàng trăm tỷ đôla của dân còn nghèo khổ. Nó sẽ thu hút tất cả nguồn sinh
lực và tài chính quốc gia, không cho phép ta đầu tư vào những lĩnh vực then
chốt khác : Năng lượng tái tạo, tiết kiệm và tăng gia hiệu suất năng lượng,
chưa kể các lĩnh vực ưu tiên, như giáo dục, nghiên cứu, y tế, xã hội...Và ta sẽ
càng khó đuổi kịp các nước biết nhìn xa ngó rộng, biết đầu tư đúng nhịp tiến bộ
khoa học kỹ thuật ngày nay.
Chương trình ĐHN Pháp quá mạnh, nay cũng bị kẹt ! Pháp muốn khai
thác nhanh Năng lượng tái tạo như Đức mà không đủ điều kiện, nhất là về tài
chính. Đức rất khôn ngoan, đã tiên phong đầu tư vào lĩnh vực tái tạo từ hơn 20
năm nay !
Pháp : Cường quốc hạt nhân dần chuyển sang năng lượng xanh
Để có một ý niệm về tầm quan trọng của lĩnh vực nghiên cứu hạt
nhân, tôi xin phép vắn tắt giới thiệu Trung tâm hạt nhân của Pháp nêu trên :
CEA (Commisariat à l'Energie Atomique et aux Energies Alternatives). Hai chữ
Energies Alternatives (các năng lượng mới) mới thêm vào cách đây vài năm, chứng
tỏ sự chuyển hướng của Pháp trong lĩnh vực năng lượng. CEA, nỗi tiếng trên thế
giới, có cả thảy 5 cơ sở dân sự (Saclay, Fontenay- aux- Roses, Grenoble,
Marcoule và Cadarache) và 5 cơ sở quân sự. Với một ngân sách lên đến 4,7 tỷ
euros và 16.000 nhân viên có trình độ rất cao, phục vụ ở 53 đơn vị, CEA hợp tác
chặt chẽ với 500 xí nghiệp.
Riêng về CEA Grenoble, trước kia gọi là CENG (Centre d'Etudes
Nucléaires Grenoble), được GS Louis Néel, Nobel Vật lý, thành lập năm 1956, tôi
được biết rõ hơn cả vì đã tu nghiệp hạt nhân ở nơi đây.
CENG có cả thảy 12 phòng thí nghiệm, dành cho nghiên cứu vật lý cơ
bản, vật lý chất rắn, nhiễu xạ nơtron, nhiệt độ thấp, cộng hưởng từ, máy gia
tốc. Các phòng thí nghiệm khác đảm trách vật lý hạt nhân, truyền nhiệt, đặc
tính hóa học của chất rắn và luyện kim, đặc tính hóa học dưới bức xạ, ứng dụng
chất phóng xạ và điện tử. Cộng với 3 lò hạt nhân : Mélusine, Siloé, Siloette,
CENG đã đào tạo hàng ngàn kỹ sư cho EDF.
Từ 2002 đến 2012, CEA Grenoble đã phá gỡ 3 lò nêu trên. Vì thế
hiện nay, CEA Grenoble hoàn toàn phi hạt nhân và 4 hướng nghiên cứu chính là
công nghệ micro-nano, năng lượng mới, công nghệ sinh học và nghiên cứu cơ bản.
Quá trình diễn biến khoa học và kỹ thuật của CENG cho phép tôi nói
rằng : Việt Nam đi lùi hơn nửa thế kỉ mà không biết !
Vì cớ gì, người ta đi tới, mình đi lùi, người ta đi ra, mình đi
vào ?
Lúc bắt đầu chương trình ĐHN, Pháp đã có một nền tảng công nghiệp
cơ điện vững chắc, ngoài EDF và CEA. Lực lượng nguyên tử của họ ngày nay có
thêm Areva, một xí nghiệp hùng mạnh, bao sân toàn bộ chu kỳ hạt nhân, từ mỏ
uranium đến khâu xử lý chất thải phóng xạ. Nên biết rằng từ 1957 đến 2010, Pháp
đã đầu tư cả thảy khoảng 300 tỷ đô la vào lĩnh vực hạt nhân dân sự.
Liệu ta có đủ nhân lực và tài chính để ồ ạt xung phong vào một
công nghiệp đang xuống dốc mạnh không ?
Dù sao, theo tôi, xây dựng Trung tâm hạt nhân Đà Lạt bây giờ thì
cũng quá muộn rồi, so với lịch trình của một chương trình ĐHN quá tham vọng của
ta, sang năm đã khởi công.
Nếu
nâng cao hiệu suất sử dụng điện, không cần ĐHN
Giáo
sư Phạm Duy Hiển
: Hiện nay có một mâu thuẫn như thế này : Chúng ta nói là Việt Nam thiếu
điện. Tất nhiên hai năm nay, thì đỡ hơn rất nhiều, vì có một số tổ máy vào,
không đến nỗi bị cúp điện như cách đây 3, 4 năm. Nhưng mà tôi vẫn giữ một
quan điểm là Việt Nam rất lãng phí điện. Chúng tôi có những công trình nghiên
cứu nói rõ những cái đó. Việt Nam lãng phí vào loại nhất thế giới. Nói ra
điều này ít ai tin được, bởi vì một nước nghèo như Việt Nam, làm sao lại lãng
phí đến mức như vậy ?!
Nhưng
mà hãy hỏi các nhà nghiên cứu có tìm hiểu kỹ về vấn đề này, thì so sánh theo
những tiêu chí nhất định, thì đúng như vậy. Hệ số đàn hồi của Việt Nam là luôn
luôn lớn hơn 2, mà các nước xung quanh chỉ hơn 1. Như vậy đề làm được một đô
la hay một euro, chúng ta phải tiêu thụ lượng điện gấp đôi các nước xung quanh.
5% tăng trưởng GDP hàng năm, thì tiêu thụ điện tăng tới 12%. Như thế hệ số
đàn hồi lớn hơn 2. Hiện nay chưa giải được bài toán đó. Thực ra những người có
thẩm quyền cũng biết việc này và cũng đặt kế hoạch đến 2020, làm sao Hệ số đàn
hồi chỉ còn 1 thôi.
Cho
nên quyết sách rất quan trọng. Nếu giải quyết được vấn đề nâng cao hiệu quả
sử dụng điện… Cứ làm đúng như các nước xung quanh, thì mức tiêu thụ năm 2020 không
phải là con số dự kiến như khi đưa ra Quốc hội, lúc đề nghị duyệt chương trình
ĐHN. Nếu Việt Nam đề cao hơn nữa hiệu quả sử dụng điện năng, thì theo tôi chưa
cần phải làm ĐHN. Cứ đẩy lùi chương trình này lại.
Cái
này chứng minh không khó và không phải ít người thấy. Nhưng mà tại sao không
thể làm được ? Thì thực ra tôi thấy cũng rất là khó hiểu ?!
|
Dân các nước dân chủ thường phản đối cơ sở hạt nhân gần dân cư
RFI :
Hiện nay tỉnh Lâm Đồng
không đồng ý về việc xây cất Trung tâm ở Đà Lạt, do sợ hạt nhân và có đề nghị nên
tìm một địa điểm khác cách xa Đà Lạt 30 km. Xin Giáo sư cho biết suy nghĩ của
Giáo sư về vấn đề này ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Tỉnh Lâm Đồng không đồng ý thì cũng có lý, tuy mức độ nguy hiểm
của Trung tâm thấp hơn nhiều so với lò ĐHN.
Muốn so sánh, lấy ví dụ lò nghiên cứu Triga Đà Lạt 250 kW nhiệt
của Mỹ viện trợ năm 1963. Sau đó vào năm 1984, hợp tác với Nga, công suất nhiệt
đã được nâng lên 500 kW. Công suất điện lò Ninh Thuận là 1000 MW, tức gần 3000
MW nhiệt !
Rủi ro về ô nhiễm phóng xạ phần lớn là do sự cẩu thả hay sai lầm
của nhân viên khai thác. Còn lạ gì về những nhược điểm của ta : Thiếu tác phong
công nghiệp, tác phong xã hội, văn hóa an toàn. Thảm họa Tchernobyl hay
Fukushima là do ở con người chứ không phải ở thiết bị.
Ngày nay ở các nước dân chủ, nhất là ở Âu Châu, phần đông các
thành phố, làng, xã nhỏ hay lớn đều tìm mọi cách để từ chối việc cấp đất để xây
cất nhà máy Điện hay cơ sở hạt nhân, dù có mua chuộc họ với tiền bạc đi nữa.
Cũng vì lẽ ấy mà các công ty điện lực như EDF, đề nghị kéo dài
thời gian vận hành các lò từ 30 đến 40, 50 hay 60 năm ! Theo tôi, gia hạn như
thế rất tốn kém và nguy hiểm.
Sở dĩ ngày xưa, các phòng thí nghiệm hạt nhân được xây dựng ở
trung tâm thành phố, phần lớn cũng vì các chuyên gia thiếu kinh nghiệm và coi
thường mức độ nguy hiểm của phóng xạ. Dân chúng thì không có thông tin chính
xác để chống đối mạnh như ngày nay.
Ngay ở CENG tại thành phố Grenoble, ngày 7-11-1967, một thanh
nhiên liệu đă bị nóng chảy ở lò nghiên cứu Siloé làm thoát ra 55.000 curies
trong hồ nước và 2.000 curies trên khí quyển. Cũng ở Grenoble, tại lò RHF
(Réacteur à Haut Flux) của Viện Laue-Langevin, ngày 19-7-1974, 2500 curies
Antimoine 124 bị rò rỉ trong hồ nước, gây ô nhiễm ở lớp nước giếng.
Trưng cầu dân ý về ĐHN Việt Nam
RFI : Giáo sư có thêm ý kiến gì vấn đề này
?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Theo tôi, cần phải có cuộc trưng cầu dân ý về chương trình ĐHN
của Việt Nam. Như thế mới là dân chủ !
Timothy Mitchell, Giáo sư Đại học Columbia (New York), trong cuốn
sách « Carbon Democracy
» (Năng lượng và nền Dân chủ) vừa xuất bản, đã chứng minh sự liên hệ mật thiết
giữa dân chủ và năng lượng. Qua các thế kỉ 18, 19 và 20, ta thấy các tập đoàn,
xí nghiệp, lobby, giàu mạnh trên thế giới, đã lợi dụng đồng tiền, uy tín và
quyền lực của họ, gây áp lực và ảnh hưởng lớn trong cơ cấu chính quyền, các tổ
chức xã hội, nghiệp đoàn, để khai thác và phát triển công nghiệp than, dầu,
khí, rồi ĐHN.
Sau thảm họa Fukushima, họ thừa biết rằng thời kỳ oanh liệt của
hạt nhân đã qua rồi (60 năm tròn, như chu kỳ dài hạn của nhà kinh tế Nga
Kondratieff), nên đã mạnh dạn chuyển hướng đầu tư sang Năng lượng tái tạo.
Những nước không muốn trưng cầu dân ý, che đậy thông tin chính xác
về ĐHN, sẽ làm mất giá trị và ý nghĩa của hai chữ dân chủ. Ở Pháp, nhờ sự tranh
đấu vững mạnh của các tổ chức phi chính phủ (ONG), giai đoạn xấu xí này đã chấm
dứt từ lâu.
Bài học đi trước thời đại của nước Áo
Nước Áo đã cho thế giới một bài học dân chủ có một không hai trong
lĩnh vưc ĐHN, mà ít người biết đến. Từ 1972 đến 1977, nước này xây cất xong nhà
máy ĐHN Zwentendorf (lò nước sôi BWR 730 MW), cách thủ đô Vienne 60 km, cạnh bờ
sông Danube. Ngay sau đó, trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1978 (tức trước sự cố
Three Miles Island ở Mỹ năm 1979), số phiếu chống ĐHN thắng với tỷ số eo hẹp
50,5% ! Tuy vậy, chính phủ vẫn ra lệnh tuyệt đối cấm không cho nhà máy này vận
hành ! Nó đã trở thành một Viện bảo tàng và cũng là một địa điểm đang sản xuất
điện mặt trời ! Đáng phục hơn nữa là năm 1999, luật ghi rõ trong hiến pháp -
Nước Áo không hạt nhân - được quốc hội đồng thanh biểu quyết.
Sau thảm họa Fukushima, tỷ lệ số dân Áo chống ĐHN vọt lên 80% và
người cầm đầu nước này, Werner Faymann, đã long trọng đề nghị Cộng đồng Âu Châu
nên từ bỏ ĐHN và đầu tư mạnh vào Năng lượng tái tạo.
Theo tôi, chỉ có Năng lượng tái tạo (không tốn tiền nhiên liệu,
đừng bao giờ quên !) mới đem lại độc lập, hòa bình và dân chủ cho thế giới.
Mỗi lò hạt nhân sẽ làm ta kẹt ít nhất 50 năm để khai thác và 50
năm để tháo gỡ. Đó là chưa kể phải tiếp tục quản lý chất thải phóng xạ suốt
hàng trăm thế kỉ liên tiếp!
Nếu một tai nạn lớn như thảm họa Tchernobyl hay Fukushima, xẩy ra
trong số 14 lò, sẽ được xây cất ở các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Hà Tĩnh, thì lãnh thổ ta sẽ lâm nguy và bị cắt làm đôi, do phóng xạ
bao trùm cả miền Trung. Dân chúng sẽ di tản ở đâu ? Chất thải phóng xạ giết
đồng bào ngàn năm vẫn còn đó.
Ta đừng vội quên Fukushima. Chất độc phóng xạ tiếp tục tung hoành
cả khu vực rộng lớn xấu số này. Hiện nay, Tepco đang gặp cơn khủng hoảng hết
sức trầm trọng. Mỗi ngày Tepco tiếp tục đổ ra Thái Bình dương trên 300 tấn nước
bị ô nhiễm ! Chính phủ Nhật đang hoang mang, vì những thùng chứa 200.000 tấn
nước nhiễm phóng xạ đe dọa bị nứt. Vừa qua, 300 tấn nước rất độc hại đã thoát
khỏi một thùng nước bị hỏng. Sự cố đã được nâng lên cấp số 3 trên thang INES (International
Nuclear Event Scale). Tepco cũng như Rosatom của Nga đã nhiều lần bị chỉ trích
về sự thiếu nghiêm túc và nói láo, ta cứ tin tưởng ở hai chữ an toàn của họ thì
có ngày sẽ thất vọng và hối tiếc.
Nước Áo vô cùng sáng suốt đã hỏi ý kiến dân trước khi xẩy ra 3
biến cố khủng khiếp nhất : Three Miles Island, Tchernobyl và Fukushima.
Vì vận mệnh thiêng liêng của tổ quốc và sự sống còn của đồng bào,
một lần nữa, tôi thiết tha đề nghị Chính phủ Việt Nam tổ chức gấp một cuộc
trưng cầu dân ý, trước khi khởi công. Nếu không, những ai lấy quyết định hôm
nay, ngày mai đâu còn đó mà chịu trách nhiệm với non sông ? ».
An toàn là đòi hỏi số một
Trở lại với chủ trương xây dựng một trung tâm hạt nhân tại Đà Lạt.
Ngoài các mục tiêu nghiên cứu cơ bản và sản xuất các đồng vị phóng xạ phục vụ
cho y tế và một số ngành kinh tế, dự án Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt
nhân Đà Lạt nằm trong chương trình đào tạo nhân lực cho kế hoạch phát triển ĐHN
tại Việt Nam, trước mắt với việc xây dựng hai nhà máy hạt nhân tại tỉnh Ninh
Thuận, với công nghệ và tín dụng của Nga và Nhật Bản, dự kiến sẽ bắt đầu cung
cấp điện từ năm 2020. Việc khởi sự một trung tâm đào tạo nhân lực hạt nhân vào
thời điểm sắp khởi công xây dựng nhà máy hạt nhân đầu tiên (năm 2014) cho thấy
Việt Nam đang lúng túng trong chủ trương phát triển năng lượng hạt nhân, mà
việc đào tạo vốn có những đòi hỏi rất cao. Một số nhà quản lý và chuyên gia
trong nước cảnh báo, một mặt, Việt Nam chưa xây dựng xong chương trình đào tạo
ở bậc đại học cho các ngành nghề trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử - với ước
tính cần khoảng hơn 4.000 kỹ sư, chuyên viên… từ sau năm 2020 -, mặt khác, các
ngành học này khó thu hút được sinh viên, đặc biệt các sinh viên có năng lực
khá, giỏi.
Bên cạnh những ý kiến phê phán triệt để chủ trương phát triển ĐHN
như của Giáo sự Nguyễn Khắc Nhân trong phần trình bày phía trên, tại Việt Nam,
sau khi chương trình hạt nhân chính thức được thông qua, một số chuyên gia
trước có quan điểm phản đối, nay chấp nhận chủ trương chính thức của Nhà nước,
nhưng tiếp tục bảo vệ quan điểm : Để ĐHN không trở thành một tai họa, điều tiên
quyết số một là phải đào tạo được một đội ngũ nhân lực đủ để tham gia xây dựng,
vận hành và bảo đảm an toàn các nhà máy trong tương lai.
Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị tiếng nói của Giáo sư Phạm Duy
Hiển, nguyên viện phó Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, viện trưởng Viện
Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, hiện là chủ tịch hội đồng khoa học cục Kiểm soát và
an toàn bức xạ, hạt nhân Việt Nam.
|
Giáo sư Phạm Duy Hiển : « Sau tai nạn Fukushima, thì trên thế giới có tổng kết lại là
tại sao nó xẩy ra. Thì người ta rút ra mấy cái kết luận như thế này : Cái an
toàn của ĐHN nó không phải là tự trong máy móc thiết bị đã được cài sẵn, mà vấn
đề là cái an toàn đó nó được thể hiện qua đội ngũ về chuyên môn cũng như về
quản lý. Do đó cho nên, Việt Nam muốn làm ĐHN, thì như chúng tôi đã nói rất
nhiều lần là cái công tác đào tạo con người là việc hết sức quan trọng. Mà tôi
nghĩ rằng Nhà nước cũng đã quan tâm đến chuyện đó. Do đó cho nên, việc xây dựng
cái trung tâm nghiên cứu hạt nhân, với Trung tâm nghiên cứu hạt nhân cái lò
phản ứng công suất hơn 10 MW là nằm trong chủ trương ấy.
Hiện nay, Nhà nước, Quốc hội rất muốn là có ĐHN sau 2020, nhưng mà
trên thực tế tiến độ đó là khó thực hiện được, bởi vì ngay đến bây giờ phía
Việt Nam vẫn chưa nhận được những tài liệu thiết kế cần thiết, thậm chí những
tài liệu kỹ thuật, luận chứng của các đối tác cũng chưa có. Là bởi vì, như tôi
nói nhiều năm trước, việc làm ĐHN không đơn giản như thế, như khi ta quyết định
xây dựng một nhà máy đóng giày… Đặc biệt sau vụ Fukushima, mọi người đều thấy
rằng an toàn ĐHN là vấn đề rất lớn.
Nhân lực có trình độ cao không chỉ trong kỹ thuật mà cả trong quản
lý
GS Phạm Duy Hiển : Cho nên không thể làm mà đốt cháy giai đoạn được. Thực chất vấn
đề này chúng tôi đã dự đoán trước từ nhiều năm, thậm chí từ cách đây 10 năm.
Thế và cũng căn cứ vào tình hình chung ở rất nhiều nước trên thế giới, nói
chung trong thời gian những năm gần đây, có lẽ loại trừ Trung Quốc là một nước
có lẽ cũng đặc biệt, còn tất cả các nước khác làm ĐHN đều trễ tiến độ, so với
lại dự kiến ban đầu, thậm chí trễ rất nhiều. Tất cả đều là do chuyện con người
bây giờ, người ta lo cho chuyện an toàn, không thể chấp nhận, không thể bỏ qua
bất cứ sai sót nào. Và cái đó nó cũng đặt ra một thách thức cho Việt Nam. Là
muốn làm được như vậy, thì phải có đội ngũ, phải có những người am hiểu, chứ
không phải lúc nào cũng thuê nước ngoài được cả.
Thế thì trở lại vấn đề nhân lực cho Việt Nam. Nhân lực có trình độ
cao không phải chỉ trong lĩnh vực học thuật, chuyên môn, kỹ thuật, mà còn cả về
quản lý, lo lắng cho công tác an toàn. Và việc chỉ đạo, lãnh đạo từ phía cấp
cao của Nhà nước. Chúng ta thấy, như vụ Fukushima hiện nay. Ngay vụ rò rỉ phóng
xạ, Thủ tướng chính phủ phải đứng ra giải quyết.
Đội ngũ nhân lực chưa sẵn sàng thì chưa thể xây dựng và vận hành
nhà máy ĐHN
GS Phạm Duy Hiển : Bây giờ gần đây nói thêm, cũng có chuyện là trong nước cũng có
chính sách là tuyên truyền cho người dân biết về ĐHN. Nhưng mà các nước người
ta tổng kết về tuyên truyền như thế này : Anh tuyên truyền cho ĐHN, thì anh
không thể nói được là ĐHN là an toàn, vì nó không đúng nữa rồi. Khắp nơi nó xẩy
ra chuyện này, chuyện khác, nhất là vụ Fukushima. Tuyên truyền (thực chất) cho
ĐHN thì phải nói như thế này : ''Bà
con hãy tin tưởng vào chúng tôi ! Chúng tôi sẽ cố gắng làm cho ĐHN an toàn đến
mức có thể được''. Đấy là câu tổng kết mà tôi cho là rất có giá
trị.
Như vậy có nghĩa là, thực chất mọi người phải làm thế nào để cho
nó an toàn, và tuyên truyền có nghĩa là thể hiện cho đồng bào, nhân dân thấy là
chúng tôi đã cố gắng hết sức để làm cho nó an toàn. Đó là tình hình của Việt
Nam ta hiện nay, khi đã có quyết định là làm ĐHN, thì có lẽ cách tốt nhất là
phải nói như vậy.
Mà nói như vậy có nghĩa là phải có hành động. Có hành động là mọi
biện pháp để có được đội ngũ bảo đảm an toàn cho ĐHN. Tôi nói với tư cách của
một người được giao nhiệm vụ làm ngành hạt nhân này từ 35 năm nay ở trong nước.
Trước đây tôi không có nhất trí với việc làm sớm và làm ồ ạt ĐHN, nhưng bây giờ
một khi chính phủ đã quyết, thì chúng tôi phải nói rất mạnh đến vấn đề là nhân
lực của ta chưa thật sẵn sàng và phải hết sức tập trung vào đào tạo được nhân
lực đó. Và chừng nào đội ngũ nhân lực đó mà chưa sẵn sàng, thì chưa có thể làm,
chưa có thể cho vận hành, xây dựng nhà máy ĐHN được.
----
Trong nhiều năm, trước khi được Quốc hội thông qua, chương trình
ĐHN của Việt Nam bị nhiều ý kiến phê phán dữ dội của các chuyên gia trong và
ngoài nước, về mặt nguyên tắc. Sau khi đã trở thành một chủ trương chính thức
tại Việt Nam vào năm 2009, chương trình phát triển ĐHN tiếp tục bị chỉ trích
trong vận hành cụ thể, đặc biệt sau khi giới chuyên gia thu nhận được rất nhiều
bài học đắt giá về những sai lầm của con người trong việc quản lý phóng xạ sau
thảm họa Fukushima. Sự lúng túng của chính phủ trong việc thực hiện chương
trình phát triển ĐHN như dự kiến là một dịp để đặt lại vấn đề : Trong bối cảnh
tổng mức tiêu thụ điện toàn quốc thấp hơn nhiều so với dự kiến, liệu việc phát
triển cấp tốc năng lượng hạt nhân có cần thiết ? Bên cạnh đó, nếu tổ chức được
việc tiết kiệm điện thực sự hiệu quả và kiên quyết phát triển mạnh các loại
năng lượng tái tạo, liệu Việt Nam có thể thu hẹp quy mô của ĐHN ?
Để có cơ sở đưa ra được những câu trả lời thỏa đáng cho những vấn
đề kể trên, nhiều nhà khoa học cho rằng cần phải có những tính toán về dự báo
tiêu thụ điện và phương hướng tiết kiệm điện, phát triển các năng lượng xanh
mang tính minh bạch và khách quan hơn hiện nay.
Các bài liên quan
Về
chủ trương làm đường điện 750 kV tại Ninh Thuận
GS
Nguyễn Khắc Nhẫn
: Tôi không rõ ai đề xướng điện áp 750 kV (con số tiêu chuẩn là 765 kV). Thật
hết sức vô lý !
Trên
lý thuyết, khi đường dây dài quá 700 km hay 800 km, dùng điện siêu áp (ultra
haute tension) 750 kV hay điện một chiều (courant continu) cao thế là phải.
Đường
dây Bắc Nam của ta dài gần 1.500 km, xây dựng vào năm 1992, dùng điện xoay
chiều 500 kV. Sở dĩ không dùng điện một chiều là vì dọc đường phải cung cấp điện
cho nhiều thành phố, qua các trạm biến thế. Lúc bấy giờ ta không dùng 750 kV
vì điện áp cao nhất của lưới điện quốc gia là 220 kV. Từ con số này vọt ngay lên
750 kV thì rất bất tiện cho việc khai thác.
Từ
các nhà máy điện hạt nhân ở miền Trung truyền tải đến lưới điện quốc gia (220
kV hay 500 kV) khoảng cách chẳng là bao, đâu cần phải dùng siêu điện áp 750 kV
làm gì, tốn kém vô ích.
Không
phải muốn tăng mức điện áp lúc nào cũng được ! Nhiều người tưởng lầm rằng
điện áp hay điện thế (U) tăng cùng tỷ lệ với công suất điện (P), vì thế khi có
nhiều nhà máy điện với công suất lớn, thì phải tăng mức điện thế theo
ngay. Nhưng trên thực tế, điện thế U tỷ lệ với √ P chứ không phải với P,
tức là mức tăng điện áp chậm hơn rất nhiều so với mức tăng công suất.
Nga
đã sử dụng điện áp 750 kV từ lâu vì đất rộng và nhu cầu điện mênh mông. Hay
có chuyên gia ngoại quốc nào đây quảng cáo láo để bán trang thiết bị cho ta ?
Điều
này cũng dễ hiểu thôi vì thị trường hạt nhân đang xuống dốc mạnh. Nhiều nước,
đã lỡ đặt lò, sau Fukushima, rút lui có trật tự. Chương trình khuếch trương
điện lực của Nhật cũng có dự kiến sẽ xây cất thêm 14 lò trước thảm họa. Tội
gì mà không bán hàng tồn kho cho Việt Nam ?
Lúc
xưa, tôi phải tranh đấu mạnh với công ty Nippon Koei nên họ mới chịu trang bị
đường dây Danhim Sàigòn dài 257 km, với điện áp 220 kV thay vì 154 kV. Lý do
là họ không làm đúng kỹ thuật và tôi cũng nghĩ rằng họ muốn bán thiết bị tồn
kho, vì điện áp 154 kV đã lỗi thời !
Đầu
những năm 1970, các kỹ sư EDF vì quá lạc quan, cũng đã có sai lầm trong dự
báo chiến lược như ta. Họ đã tuyên bố rằng đến năm 2000 điện áp cao nhất của lưới
điện EDF là 750 kV và tổng sản lượng điện của Pháp là 1.000 TWh !
Sau
cơn khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên năm 1973, nhờ kế hoạch tiết kiệm năng lượng,
mức tiêu thụ đã hạ thấp nhanh. Từ nhiều năm nay, tổng sản lượng điện của Pháp
vẫn giữ con số 500 TWh và điện áp cao nhất 400 kV vẫn không thay đổi.
Có
kịch bản khuyến khích khai thác triệt để Năng lượng tái tạo, tiết kiệm và tăng
gia hiệu quả năng lượng để hạ tổng sản lượng điện Pháp xuống 400 TWh !
Ta
nên hết sức thận trọng, cần phải nghiên cứu, phân tích tỉ mỉ, không nên tung
ra những con số thiếu chính xác, gây ra những lỗi lầm đáng tiếc trong việc kiến
thiết quốc gia.
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching