X

Saturday, May 10, 2014

TRUNG CỘNG ĐẺ RA LUẬT LÃNH HẢI 3 HẢI LÝ QUANH GIÀN KHOAN


On Saturday, 10 May 2014 1:30 PM, "anh truong  wrote:

 
TRUNG CỘNG ĐẺ RA LUẬT LÃNH HẢI 3 HẢI LÝ QUANH GIÀN KHOAN

United States Armed Forces 2014 - US

http://www.youtube.com/watch?v=T9sDxvsbsnA

TRUNG CỘNG CHƠI LUẬT CÔN ĐỒ
tka23 post

Việc Trung cộng  đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xem là hành động khiêu khích nghiêm trọng nhất của Bắc Kinh đối với những tranh chấp trên Biển Đông.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ,

bà Jen Psaki tuyên bố quyết định đưa giàn khoan dầu  HD-981 trị giá 1 tỷ USD vào sâu trong vùng biển thuộc chủ quyền biển đảo của Việt Nam và chỉ cách đảo Lý Sơn 120 hải lý hôm 1/5 là hành động "mang tính khiêu khích và không giúp ích gì cho công việc duy trì hòa bình cũng như ổn định trong khu vực".  
Việt Nam đã yêu cầu Trung cộng  rút giàn khoan dầu về nước; song Bắc Kinh lại cảnh cáo Việt Nam không được quấy rối hoạt động của HD-981. Thậm chí, Trung cộng  còn tuyên bố chủ quyền với vùng đặc quyền rộng 3 dặm bao quanh giàn khoan dầu
Giàn khoan dầu HD-981 của Trung cộng  trên Biển Đông
Không những vậy, Trung cộng  còn ngang nhiên khẳng định giàn khoan dầu HD-981 hoạt động trong khu vực hải phận quốc gia và nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của chuỗi đảo mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép của Việt Nam từ năm 1974. 
Hành động đó của Trung cộng  hoàn toàn sai so với Công ước Luật Biển 1982. Bởi đây không phải là quốc gia quần đảo, và không có một quy định nào cho phép Trung cộng  quy định đường cơ sở bao quanh quần đảo. Việt Nam luôn xác định Hoàng Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, luôn tuân thủ quy định về quần đảo theo Công ước Luật Biển 1982. Theo đó, hòn đảo nào có đời sống kinh tế riêng, thích hợp với đời sống con người thì có vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Còn đối với những đảo nhỏ bé không có đời sống kinh tế riêng, không thích hợp với cuộc sống con người thì chỉ có

 lãnh hải 12 hải lý.
Nghiêm trọng hơn là việc Trung cộng  đã tự cho ra đời tấm bản đồ "đường chín đoạn" miêu tả một khu vực rộng lớn hình chữ U chiếm gần trọn Biển Đông bất chấp mọi luật pháp quốc tế. 
Ngoài ra, Bắc Kinh cũng luôn mập mờ trong việc thể hiện tham vọng bá quyền của mình. Chính sự mập mờ này đã khơi mào căng thẳng tại nhiều khu vực trên Biển Đông. Theo tờ The Economist, có 4 lý do thể hiện mức độ  nghiêm trọng khi Trung cộng  đưa giàn khoan HD-981 tới hải phận của Việt Nam. 
Thứ nhất, Trung cộng  thường xuyên đưa các tàu cá và tàu tìm kiếm dầu tới vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Nhưng đây là lần đầu tiên Bắc Kinh  khoan dầu tại vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. 
Thứ hai, trong sự việc lần này, Trung cộng  đã huy động  tới 80 tàu bao gồm cả tàu hải quân để bảo vệ giàn  khoan HD-981. 
Thứ ba, giàn khoan HD-981 được đặt trên một vùng biển rộng lớn và Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn khi phải một mình đối phó với hành động trái phép từ Bắc Kinh. 
Cuối cùng, sự xuất hiện của giàn khoan dầu HD-981 trên Biển Đông được xem là hành động Trung cộng  muốn phản đối chuyến thăm tới 4 nước châu Á của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trong chuyến thăm này, Tổng thống Obama đã tái khẳng định cam kết hỗ trợ an ninh và duy trì chiến lược "trục châu Á" với các đồng minh trong khu vực. 
Thậm chí, tại Nhật Bản, ông Obama còn tuyên bố rằng quần đảo tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh và Tokyo trên biển Hoa Đông – Senkaku/Điếu Ngư, nằm trong hiệp ước an ninh chung giữa hai nước và được Washington bảo vệ.
   Ngoài ra, Mỹ cũng đã ký một bản hiệp ước an ninh mới có hiệu lực trong 10 năm với đồng minh Philippines ngay trước thời điểm ông Obama đặt chân tới thăm Manila.
Nguồn tin từ phía lực lượng cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam, các vụ va chạm giữa tàu hộ vệ cho giàn khoan HD-981 của Trung cộng  và tàu kiểm ngư của Việt Nam đã khiến 8 tàu Việt Nam bị hư hỏng và 6 kiểm ngư viên bị thương.


David Brown - Cố xoa dịu tình hình biển Đông, người Việt Nam đang chơi một trò rủi may vô vọng

Thứ Sáu, ngày 09 tháng 5 năm 2014


Vũ Thị Phương Anh dịch từ ASean Sentinel

Bắc Kinh vừa đưa một dàn khoan nước sâu vào vùng biển của Việt Nam.

Chế độ Cộng sản Việt Nam đã hy vọng rằng cách hành xử tôn kính của họ đối với TQ có thể làm dịu đi tham vọng thôn tính biển Đông của gã láng giềng khổng lồ phương Bắc này. Nhưng với việc đưa dàn khoan nước sâu HD-981 vào thăm dò khai thác dầu khí ở ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, Bắc Kinh đã đập tan hy vọng này và đặt Hà Nội vào một tình thế vô cùng khó xử.

Trong giai đoạn 2009-2011, Việt Nam đã từng là quốc gia đưa ra những lời phê phán mạnh mẽ nhất đối với tuyên bố chủ quyền của TQ đối với hầu hết Biển Đông, khi Hà Nội đang hy vọng sẽ tập hợp được một mặt trận thống nhất từ Hiệp hội các nước Đông Nam Á với sự hỗ trợ (ít nhất là một cách ngấm ngầm) bởi sức mạnh hải quân Mỹ. Sự miễn cưỡng của cộng đồng của ASEAN trong việc thách thức Trung Quốc đã khiến Mỹ không có được một nền tảng cần có cho một chính sách mạnh mẽ trong khu vực Biển Đông. Washington cũng chưa bao giờ tỏ ra mặn mà với việc cung cấp sự bảo đảm về mặt phòng thủ cho những nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông khác với Trung Quốc, kể cả đối với người đồng minh mà nó đã ký hiệp ước phòng thủ là Manila.

Trong hoàn cảnh như vậy, một thái độ nhún nhường dù ḳhôṇg được người dân ủng hộ, dường như là lựa chọn có thể xoa dịu được Bắc Kinh và tạo ra được sự kiềm chế. Đặc biệt từ khi chính phủ mới của Tập Cận Bình lên nắm quyền, các nhà lãnh đạo VN đã hết sức nỗ lực để cải thiện mối quan hệ với gã hàng xóm thô lỗ của mình.

Vào những năm 2012 và 2013, khi TQ "thực thi chủ quyền" của mình trên các rạn san hô trong vùng biển Philippines, phản ứng của HN là hoàn toàn im lặng. Khi TQ cử một đội tàu nhỏ để cắm cờ TQ trên bãi James ở phía Đông Mã Lai, VN cũng không hề lay chuyển. Khi tàu hải giám của TQ đuổi ngư dân VN ra khỏi ngư trường truyền thống gần quần đảo Hoàng Sa, đường dây nóng giữa Hà Nội và Bắc Kinh chẳng thấy vang lên lời phản đối nào. Khi căng thẳng bùng lên giữa Nhật Bản và TQ về quần đảo Điếu Ngư, Hà Nội vẫn khăng khăng giữ thái độ hoàn toàn im lặng. Khi Manila yêu cầu HN cùng tham gia khởi kiện TQ lên Tòa án Công lý quốc tế, Hà Nội đã hoàn toàn né tránh. 

Trong hai năm qua, chỉ có hai sự kiện - cả hai đều diễn ra vào tháng Tám năm 2012 - đã khiến Hà Nội để lộ ra cơn thịnh nộ của mình. Đầu tiên là việc Công ty quốc gia khai thác dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc (Chinese National Offshore Oil, CNOOC) đã gửi lời mời đến các công ty dầu khí nước ngoài để chào giá thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi ở vùng bờ biển miền Trung Việt Nam. Thứ hai là việc thành lập "Thành phố Tam Sa" của Bắc Kinh trên một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa làm trung tâm hành chính và quân sự cho sự hiện diện ngày càng tăng của Bắc Kinh tại Biển Đông. 

Trong suốt thời gian hai năm đó, bất kỳ lúc nào hoàn cảnh cho phép thì các nhà lãnh đạo Việt Nam đều  đã không bỏ lỡ cơ hội tán dương mối quan hệ hợp tác anh em với các đối tác Trung Quốc. Hà Nội dường như đã lý luận rằng tình trạng hòa hoãn tương đối giữa hai nước là hoàn toàn có thể,một khi Tập Cận Bình và và nhóm thân cận của ông ta đã hoàn toàn thực sự nắm được các đòn bẩy quyền lực.

Trong thời gian chuẩn bị cho việc chuyển giao thế hệ tại Bắc Kinh, những kẻ theo chủ nghĩa Sô-vanh nước lớn ở Trung Quốc đã rất gay gắt trong việc kích động chống Việt Nam.Rõ ràng là Hà Nội đã hy vọng rằng sau khi đã nắm được quyền lực ở trung ương, Tập Cận Bình và các cộng sự của ông ta sẽ ra lệnh cho cấp dưới giảm bớ việc tuyên truyền chống Việt Nam và tránh những hành động khiêu khích. Hoàn toàn tin tưởng vào điều này, các cơ quan an ninh nội bộ của Việt Nam đã gia tăng đàn áp các blogger bất đồng chính kiến; đây là một cử chỉ để chứng tỏ với Bắc Kinh, nhưng đã không có tác dụng dập tắt những lời chỉ trích của công chúng đối với chính sách “nhu nhược” của chế độ trước Trung Quốc.

Tại Hội nghị Shangri La vào tháng Chín năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi Trung Quốc và các thành viên khác hợp tác để "xây dựng lòng tin chiến lược." Tài hùng biện của ông Dũng đã được nhiệt liệt hoan nghênh nhưng, giờ đây khi dàn khoan HD-981 đã thả neo trong khu vực 120 km ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, liệu có quốc gia nào trong danh sách dài các đối tác của Hà Nội có hành động gì ngoài các lời nói đầu môi trước sự phản đối của Việt Nam?

Những lựa chọn khó khăn cho Hà Nội 

  Tin tức về việc triển khai dàn khoan nước sâu của TQ đã nổ ra vào ngày 4/5, khi một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối lời cảnh báo thường kỳ của Cục Quản lý an toàn hàng hải của Trung Quốc. Một bản đồ được cung cấp bởi công ty dầu khí của nhà nước, công ty PetroVietnam, cho thấy một chiếc tàu của CNOOC đang ở vị trí khoảng 34 km về phía nam của đảo Tri Tôn, hòn đảo nằm ở ngoài cùng ở phía tây nam trong quần đảo Hoàng Sa, và cách 221 km ở phía đông của đảo Lý Sơn (trớ trêu thay, đây chính là nơi Việt Nam có Hạm đội với thâm niên vài trăm năm nuôi trồng, đánh bắt hải sản ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa).

Việc triển dàn khoan HD-981 là "bất hợp pháp và vô giá trị", phát ngôn viên của Việt Nam đã tuyên bố, và nói thêm rằng vị trí này là hoàn toàn nằm trên thềm lục địa của Việt Nam.

Không phải như vậy, Bắc Kinh nói. Địa điểm đặt dàn khoan là "hoàn toàn nằm trong vùng biển của quần đảo Tây Sa của Trung Quốc."

Hà Nội bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, một nhóm đảo nhỏ và các rạn san hô nằm rải rác về phía nam của đảo Hải Nam và phía đông của miền Trung Việt Nam. Bắc Kinh đã đánh bại các đơn vị đồn trú đóng trên một số quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa (chế độ Sài Gòn) vào năm 1974 và kể từ đó nó đã thực hiện ngày càng chặt chẽ việc kiểm soát trên thực tế trên quần đảo này và vùng biển lân cận.

Quần đảo Hoàng Sa mà TQ đã chiếm đóng vẫn không đủ để cho phép TQ mở rộng vùng đặc quyền kinh tế, xét theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Tuy nhiên, bất kỳ bãi đá nào không bị ngập khi thủy triều lên cũng có thể "tạo ra" vùng lãnh hải 12 hải lý tính từ bờ biển của nó. Vị trí khoan là 18,5 hải lý tính từ đảo Tri Tôn. Do đó nó sẽ không nằm trong "lãnh hải của Trung Quốc" ngay cả khi tuyên bố của Bắc Kinh đối với quần đảo Hoàng Sa được coi là hợp lệ.

Theo báo cáo của Trung Quốc, dàn khoan nặng 31.000 tấn và trị giá 1 tỷ USD của CNOOC sẽ duy trì ở vị trí hiện nay đến tháng Tám. Ra mắt vào năm 2011, cho đến nay dàn khoan HD-981 được báo cáo là đã thực hiện khoan thăm dò ngoài khơi từ Hồng Kông. Dàn khoan này có khả năng khoan xuống đáy biển ở độ sâu đến 3.000 mét. Bản đồ Việt Nam cho thấy rằng vị trí khoan mới là ít hơn 1.000 mét dưới mực nước biển.

Cũng theo truyền thông Trung Quốc ngày 6 /5, tàu cảnh sát biển Việt Nam đã "can thiệp" vào các hoạt động của dàn khoan. Chẳng còn nghi ngờ nữa, các tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc cũng đã được đưa đến khu vực này. Cả hai quốc gia cũng có thể triển khai các tàu hải quân và không lực để bảo vệ các lực lượng bán quân sự của họ. 

Việc triển khai dàn khoan HD-981 của TQ do đó đang đặt ra một tình thế khó xử và đau đầu cho Hà Nội. Tương tự như sự can thiệp của Trung Quốc cách đây ba năm đối với tàu khảo sát dầu khí của Việt Nam, việc Trung Quốc đề nghị đấu giá lô thăm dò dầu khí trong vùng EEZ của Việt Nam và những nỗ lực đôi khi thành công của TQ trong việc đe dọa các công ty dầu mỏ nước ngoài, hành động khiêu khích mới nhất này đang đe dọa không chỉ làm nhục mà còn gây ra những thiệt hại kinh tế thực sự cho Việt Nam. 

Không giống như quân đội Philippines, lực lượng vũ trang của Việt Nam là một sự cản trở đáng kể đối với TQ. Không ai nghi ngờ về lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của quân sĩ và thủy thủ Việt Nam, những người đã thừa kế một thiên niên kỷ những kinh nghiệm chiến đấu thành công chống quân xâm lược, mà đặc biệt là từ Trung Quốc. Hơn nữa, trong những năm gần đây Hà Nội cũng đã thực sự nỗ lực hiện đại hóa lực lượng hải quân và không quân của mình. Họ có khả năng thực hiện một số trận đánh, thậm chí có thể là nhiều trận, với Trung Quốc. 

Trung Quốc dường như đang rất muốn làm nhục Hà Nội, hoặc ngược lại, kích động để Việt Nam tấn công. Việc theo đuổi chính sách bá quyền ở khu vực Biển Đông, được mô tả rất đúng là chiến lược "vừa đánh vừa đàm”, cho đến nay vẫn luôn đặc biệt thành công. Bắc Kinh dường như đang muốn tạo ấn tượng với dư luận thế giới, chứ không hề né tránh nó. Bị kích thích bởi các phương tiện truyền thông cổ vũ cho chủ nghĩa dân túy, người dân Trung Quốc đang sôi sục muốn tiến hành một cuộc chiến tranh. 

Việc triển khai dàn khoan HD-981 đã tạo ra một tình huống xấu dễ dàng có thể leo thang thành một cuộc chiến tranh thực sự. Chỉ Bắc Kinh mới có thể làm dịu tình hình -  và chỉ khi nó có quan tâm.




anh truong
To
May 9 at 10:55 AM
HD 981 LÀ GIÀN KHOAN THĂM DÒ ĐÁY BIỂN SÂU CỦA TRUNG CỘNG-ĐƯA ĐẾN ĐÂY TRUNG CỘNG THỬ PHẢN ỨNG CỦA MỸ - NHẤT LÀ THỬ GÂN VIỆT CỘNG - CÙNG LÀ CÁ MÈ MỘT LỨA -TỪNG LÀ ĐỒNG CHÍ ĐỒNG RẬN - NHƯNG ĐỘNG ĐẾN QUYỀN LỢI TƯ RIÊNG BẤT KỂ THẦY TRÒ - XEM GƯƠNG NGA UCRAINE 

KÉO DÀN KHOAN ĐẾN BIỂN ĐÔNG  TRUNG CỘNG SẼ LÀM GÌ
tka23 post

Washington nghĩ rằng tình huống Việt Nam Trung cộng - đang đối mặt cũng giống như Ukraine Nga, Mỹ có thể tỏ ra hết sức giận giữ nhưng sẽ không làm gì hơn.

Mark Mardell, biên tập viên đài BBC News.

BBC News ngày 8/5 dẫn lời Mark Mardell, một biên tập viên Bắc Mỹ của đài này phân tích, có quan điểm cho rằng Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có một số thành công  trong việc ngăn chặn sự xâm lược của Trung cộng  ở Biển Đông, nhưng thực tế điều này rất hạn chế. 
Ngay sau chuyến công du châu Á của ông Obama vừa kết thúc, Trung cộng  đã kéo giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam với 80 tàu hộ tống, bao gồm 7 tàu quân sự. Việt Nam đã phản ứng rất mạnh mẽ, cương  quyết bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp của mình theo luật pháp quốc tế.
Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên án hành  động  này của Trung cộng là "khiêu khích" và vô ích đối với việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh khu vực. Washington bày tỏ quan ngại đặc biệt về những hành vi nguy hiểm của Trung cộng  đe dọa các tàu của Việt Nam trong vùng biển này.
 Ông Obama có thể tỏ ra hết sức giận giữ, thậm chí đưa ra nhiều lời đe dọa, nhưng Washington sẽ chẳng làm gì nhiều hơn những lời nói.
Mark Mardell lưu ý, Mỹ có mối quan hệ đồng minh quân sự với Philippines và Nhật Bản, 2 nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung cộng. Ông Obama đã nói rằng người Mỹ sẽ đứng sau lưng họ, cũng giống như ông cam kết đứng sau bảo vệ các nước Baltic vì họ là thành viên NATO. 
Nhưng Ukraine thì không, vì Kiev không nằm trong khối liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương. Cũng như vậy, Mỹ không có thỏa thuận liên minh quan sự với Việt Nam, mặc dù quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp. 
Tàu Trung cộng  nhiều lần liều lĩnh đâm vào tàu tuần tra Việt Nam, dùng vòi rồng cỡ lớn ngăn cản hoạt động thực thi pháp luật của các lực lượng chức năng Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Đó là lý do tại sao các nhà ngoại giao ở Washington nghĩ rằng tình huống Việt Nam đang đối mặt cũng giống như Ukraine, Mỹ có thể tỏ ra hết sức giận giữ nhưng sẽ không làm gì hơn. Trung cộng  đang theo dõi các sự kiện  tại Ukraine rất chặt chẽ, Mark Mardell bình luận.
Christopher Helman, một nhà phân tích đến từ Texas hôm 8/5 bình luận trên Forbes về sự kiện Trung cộng  kéo giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và phản ứng của Mỹ.
Theo ông, mặc dù không ai hy vọng chính quyền Obama sẽ đối phó với hành động xâm lăng của Trung cộng  trên Biển Đông, nhưng nếu tập đoàn Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) xem các giàn khoan của nó như "lãnh thổ quốc gia di động" thì Cục Quản lý năng lượng liên bang Mỹ cần áp dụng một số giám sát đặc biệt khi CNOOC xin giấy phép để khoan dầu ngoài khơi bờ biển Mỹ.
CNOOC đã giành được 200 điểm thăm dò tại vịnh Mexico mua lại của Canada trị giá 19 tỉ USD.
Ernest Bower và Gregory Polling từ Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và quốc tế (CSIS) cho rằng, ít ai  tin là Obama sẽ làm bất cứ điều gì để ngăn chặn hoạt động của các giàn khoan CNOOC. 

Vị trí giàn khoan HD 981 Trung cộng  âm mưu cắm chân nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, động thái theo Christopher Helman có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho khu vực và quốc tế trong dài hạn.

Obama đã không làm gì khi chính quyền Syria vượt "giới hạn đỏ" do ông đặt ra. Moscow cười ruồi  khi Mỹ tuyên bố áp đặt biện pháp trừng phạt sau sự kiện sáp nhập Crimea trong khi Iraq quay trở lại nội chiến, Iran vẫn tiếp tục chương trình hạt nhân của mình.
Bắc Kinh cũng có thể cố gắng tìm mọi cách thay đổi hiện trạng trong khi Washington bị phân tâm bởi khủng hoảng Ukraine, tình hình Nigeria và Syria. Nếu Trung cộng  tin rằng Washington đang phân tâm, thì những hành động vừa rồi ở phía nam quần đảo Hoàng Sa có thể để lại hậu quả dài hạn cho khu vực và toàn cầu, Christopher Helman bình luận.
Đây không phải lần đầu tiên Trung cõng  kéo giàn khoan ra Hoàng Sa (bất hợp pháp). Họ đã làm điều tương tự năm 2012, Vương Nghi Lâm, Chủ tịch CNOOC khi đó tuyên bố, giàn khoan di động cỡ lớn HD 981 là "lãnh thổ quốc gia di động và vũ khí chiến lược" của Trung cộng .
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia về Biển Đông từ Học viện Quốc phòng Úc bình luận, Trung cộng  dường như đã lựa chọn các địa điểm hoạt động để gây tổn hại tối đa cho Việt Nam. Có một nguy cơ các nước khác chỉ đơn giản xem như đây không phải vấn đề của họ, bởi Hoàng Sa không phải Trường Sa (nhiều bên tranh chấp).

Chuyên gia Ian Storey 

từ Singapore nói với Reuters, ông không tin rằng Việt Nam đang trong tâm trạng lùi bước mặc dù phải đối mặt với áp lực từ "kẻ thù lịch sử" của mình.
"Chúng tôi có thể dự đoán căng thẳng tăng cao một vài tháng nữa, mà tôi tin rằng có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong quan hệ Trung - Việt kể từ sau cuộc Chiến tranh Biên giới 1979 đến nay".


Mặc dù có thể Mỹ và các bên liên quan sẽ có những phản ứng khác nhau, nhưng các bên đều thừa nhận đây là hành động leo thang gây hấn, khiêu khích có chủ ý của phía Trung cộng . Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông sẽ không có gì lay chuyển được -
PV.


Xảo thuật giàn khoan của Trung Quốc
Lữ Giang
Khi được tin Trung Quốc đem giàn khoan Hải Dương 981 của Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) đến đặt trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (EEZ) của Việt Nam, nhiều chuyên gia và bình luận gia quốc tế đã có những nhận định khác nhau về hành động này của Trung Quốc.
Đài BBC ngày 5.5.2014 cho biết Tiến sĩ Ian Storey từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nói rằng đây "là chỉ dấu rằng Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của quốc gia khác hay không". Còn Ông Mike McDevitt, chuyên gia tại Trung tâm Phân tích Hải quân Mỹ nhận định: “Từng bước đi nhỏ và dần dần này của Trung Quốc sẽ không dẫn tới xung đột, tuy nhiên cùng với thời gian, họ sẽ thay đổi hiện trạng trên Biển Đông bằng chính các bước đi đó.”
Giáo sư Keith Johnson thuộc Đại Học California Berkely viết trong một bài bình luận đăng trên Foreign Policy: "Thông điệp rõ ràng mà Bắc Kinh muốn gửi đến Hà Nội là chúng tôi sẽ khoan tại bất kỳ nơi nào chúng tôi muốn.” Bà Holly Morrow, một chuyên gia Biển Đông thuộc Trung tâm Belfer của đại học Harvard đã nhận xét: "Cái giá về ngoại giao mà Trung Quốc phải trả về những gì đang làm là quá cao, vì thế, những gì mà Trung Quốc mong muốn phải cao hơn những lợi ích an ninh năng lượng đem lại", v.v.
MỤC TIÊU CỤ THỂ CỦA TRUNG QUỐC
Những bình luận theo kiểu mà người Pháp gọi là “politique de salon” nói trên còn rất nhiều, nhưng nó không cho thấy mục tiêu cụ thể của Trung Quốc là gì và họ đang làm gì để tiến tới mục tiêu đó. Trong nước xem ra nắm vững mục tiêu và kế hoạch của Trung Quốc hơn các “chuyên gia tự xưng” ở hải ngoại. Trong một cuộc trao đổi với website nguyentandung.org, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên Giới của Chính phủ đã nói:
Về vị trí đặt giàn khoan, qua quan sát bản đồ, tôi thấy nó thể hiện đầy sự tính toán. Đó là vị trí nằm cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 119 hải lý, cách đảo Tri Tôn mà họ đang chiếm 18 hải lý. Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Luật Biển năm 1982 là 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì vị trí đặt giàn khoan cách đường 200 hải lý đó 80 hải lý. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
Và để hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc có thể sẽ nói rằng vị trí đặt giàn khoan cách đảo Tri Tôn 18 hải lý – nằm trong vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc bởi Trung Quốc có chủ quyền ở Tây Sa (thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Nếu chúng ta không phân tích thì có thể rơi vào bẫy của họ.”
Đây là một nhận định rất chính xác. Mục tiêu của Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương 981 cách bờ biển Việt Nam 119 hải lý là muốn xác định vùng được coi là đặc khu kinh tế của Trung Quốc tính từ đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa. Vấn đề này khá phức tạp vì nó liên hệ đến quốc tế công pháp về luật biển, nhất là Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ngày 10.12.1982. Nhưng chúng tôi sẽ cố gắng trình bày đơn giản.
TRUNG QUỐC TIẾN TỪNG BƯỚC
Quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 36 đảo lớn nhỏ, đã bị Trung Quốc chiếm từ năm 1974 khi còn đặt dưới quyền kiểm soát của VNCH. Nhưng theo theo báo cáo đầu năm 2013 của Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA), các chứng cứ địa chất cho thấy khu vực quần đảo Hoàng Sa không có tiềm năng rõ ràng nào về khí hydrocarbon”. Nói cách khác, khu vực Hoàng Sa không có dầu lửa. Do đó, Trung Quốc phải tìm cách tiến xa hơn vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vấn đề không dễ dàng, nhưng Trung Quốc đã tính toán từ lâu họ sẽ phải làm gì.
Cho dù Hoàng Sa được xác nhận thuộc chủ quyền của Trung Quốc, Trung Quốc vẫn gặp hai khó khăn sau đây khi thực hiện quyền thăm dò và khai thác vùng xung quanh ngoài quần đảo Hoàng Sa.
1.- Khó khăn về quyền có vùng đặc quyền kinh tế.
Theo điều 121 của Luật Biển 1982, Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
Quần đảo Hoàng Sa gồm toàn những đảo san hô hay mõm đá ngầm nhỏ, không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, nên chỉ có một vùng lãnh hải (merterritoriale) là 12 hải lý quanh quần đảo, chứ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý như quy định trong Luật Biển 1982. Vì thế, Trung Quốc phải biến Hoàng Sa thành một quần đảo thích hợp cho con người đến ở bằng cách nối nhiều đảo lại với nhau, đem đất đến lấp dày để có thể trồng cây, xây nhà ở và văn phòng, xây đường bay…Nhưng liệu rồi một khu nhân tạo như thế có thể được công nhận như  một “quốc gia quần đảo” (etat archipel) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hay không? Chưa có án lệ nào xác định về trường hợp này.
2.- Khó khăn về tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế.
Cho dù được Tòa Án Quốc Tế công nhận quần đảo Hoàng Sa là một “quần đảo quốc gia” có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, Trung Quốc còn gặp khó khăn thứ hai là tranh chấp với Việt Nam về vùng đặc quyền kinh tế.
Điều 57 của Luật Biển 1982 quy định: “Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.”
Nói một cách vắn tắt, vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước không được mở rộng quá 200 hải lý. Nhưng khoảng cách từ đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi  đến đảo Tri Tôn thuộc Quần Đảo Hoàng Sachỉ có 137 hải lý. Trong trường hợp vùng biển giữa hai quốc gia dưới 400 hải lý (200 hải lý mỗi bên) thì phải giải quyết như thế nào?
Điều 15 của Luật Biển 1982 quy định rằng nếu vùng biển giữa hai quốc gia có bờ kế nhau hoặc đối diện nhau mà vùng lãnh hải dưới 24 hải lý hay vùng đặc khu kinh tế dưới 400 hải lý, vùng biển giữa hai nước sẽ chia theo đường trung tuyến (median line), tức cưa đôi.
Vùng biển giữa đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi và đảo Tri Tôn thuộc Quần Đảo Hoàng Sa chỉ có 137 hải lý, nên nếu cưa đôi mỗi bên chỉ được có 68,5 hải lý.
Giả thiết chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa được công nhận và quần đảo này được coi là “quần đảo quốc gia” có vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc và Việt Nam sẽ thảo luận để đi tới ký hiệp ước cưa đôi vùng biển 137 hải lý giữa đảo Lý Sơn và đảo Tri Tôn, ở giữa sẽ dành ra một khu được gọi là khu trái độn, khoảng 3 hải lý, mỗi bên chỉ còn khoảng 67  hải lý. Vì chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa không được công nhận và Hoàng Sa khó được coi là “quần đảo quốc gia” có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, nên Trung Quốc lại phải dùng vũ lực để giành cái gọi là vùng đặc quyền kinh tế 68,5 hải lý của họ. Ngoài giàn khoan Hải Dương 981, những tàu đánh cá nào lọt vào vùng 68,5 hải lý từ đảo Tri Tôn, Trung quốc sẽ bắt giữ hay húc bể.
TÌM PHƯƠNG THỨC ĐỐI PHÓ
Theo các nhà phân tích, hiện nay Việt Nam có ba phương thức chính để đối phó khi Trung Quốc xâm chiếm vùng biển của Việt Nam: Phương thức thứ nhất là đối phó bằng quân sự, phương thức thứ hai là dùng áp lực quốc quốc tế và phương thức thứ ba là đưa ra trước Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế. Chúng ta thử xét qua ba phương thức này.
1.- Phương thức quân sự: Bài “Thử so tài của Không quân Việt Nam và Trung Quốc trên biển Đông” đăng trên website nguyentandung.org ngày 8.5.2014 đã so sánh lực lược không quân giữa hai nước. Bài báo cho rằng lợi thế về số lượng đang nằm trong tay Trung Quốc nhưng lợi thế về sự đa dạng trong lựa chọn vũ khí hiện đại lại thuộc về Việt Nam.” Ngoài ra, Việt Nam còn lợi thế về địa lý. Nhưng bài báo kết luận: “Một khi có sự hiện diện tàu sân bay của đối phương trên biển Đông thì lợi thế về địa lý của ta không còn nhiều. Nhưng bù lại chúng ta đã và phải có một lực lượng Không quân thiện chiến trên biển sẵn sàng bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo đất nước.”
Đây là một bài báo được phổ biến nhắm vào mục tiêu chiến tranh tâm lý hơn là trình bày thực trạng. Theo các báo trong nước, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao cho biết: “Ngày 4/5, tàu Trung Quốc đã cố tình đâm 2 tàu cảnh sát biển của Việt Nam. Tàu của Trung Quốc với sự yểm trợ không lực đã tìm cách đe dọa tàu thuyền Việt Nam”. Phía Trung Quốc còn sử dụng cả vòi rồng khiến 6 thủy thủ Việt Nam bị thương. Không thấy Không quân làm gì. Sau đó Thứ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Cheng Guoping  nói rằng việc tàu của nước này đâm tàu Cảnh sát biển Việt Nam không phải là “cuộc đụng độ”.
2.- Phương thức dùng áp lực quốc tế: Hoa Kỳ thường được coi là nước có thể ngăn chận sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông. Nhưng trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, Tổng Thống Obama đã đưa ra một thông điệp gốm ba điểm chính sau đây: (1) Chính sách của Washington đối với Châu Á không phải nhằm để kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc, (2) Tổng thống Mỹ không yêu cầu các nước Châu Á phải chọn giữa Washington hay Bắc Kinh, và (3) Hoa Kỳ không ngã về bên nào trong các vụ tranh chấp, bất luận là ở Biển Đông Trung Hoa hay biển Nam Trung Hoa.
Thông điệp này cho thấy vì quyền lợi trong hiện tại, Hoa Kỳ không muốn đương đầu với Trung Quốc, mặc dầu Hoa Kỳ đã tuyên bố "xoay trục".
3.- Phương thức kiện Trung Quốc: Vấn đề không dễ dàng như nhiều người tưởng. Như chúng tôi đã nói nhiều lần, ngoại trừ các nhà nghiên cứu, đa số người Việt trong cũng như ngoài nước vẫn tin rằng có thể áp dụng Định chế ngày 4.5.1493 để chứng minh quyền sở hữu của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa, vì định chế này quy định rằng đối với các hoang đảo trên biển, ai chiếm trước thuộc về quyền sở hữu của người đó. Nghe tưởng dễ nhưng không dễ. Vả lại, định chế đó đã được thay thế bằngĐịnh Ứớc Berlin ngày 26.2.1885. Định ước này đòi hỏi sự chiếm hữu phải thật sự, liên tục và hòa bình. Việc chứng minh ba điều kiện đó không dễ dàng vì cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là đảo san hô hay đảo đá. Cứ xem án lệ xử vụ các đảo Palmas, Minquiers và Ecrehous… thì sẽ rõ.
Cũng không thể kiện Trung Quốc ra trước Tòa Án Quốc Tế La Haye được vì tòa này đòi hỏi hai bên phải cam kết thi hành án tòa mới xét xử. Trung Quốc không bao giờ cam kết như vậy. Vì thế Philippines phải đưa ra trước Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế, vì tòa này có thể xử khuyết tịch. Nhưng vấn đề thi hành án sẽ gặp khó khăn, vì khi Trung Quốc không chịu thi hành, bên thắng kiện phải nhờ Hội Đồng Bảo An LHQ can thiệp. Nhưng tại đây Trung Quốc có quyền phủ quyết, nên chỉ cầm bản án mà chơi.
Điều 39 của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đã quy định: “Hội đồng Bảo an xác định sự tồn tại mọi sự đe doạ hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng phù hợp với các điều 41 và 42 để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế.”
Nhưng điều 27 lại dành quyền phủ quyết cho 5 thành viên thường trực là Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc. Từ năm 1945, năm thành lập LHQ, đến năm 2012 đã có tất cả 269 lần phủ quyết, trong đó Nga 128 lần, Hoa Kỳ 89, Ảnh 32, Pháp 18 và Trung Quốc 9. Công lý vẫn nằm ở kẻ mạnh.
Ngày 8.5.2014
Lữ Giang


No comments:

Post a Comment

Thanks for watching

Popular Posts

Popular Posts