FYI
Tác giả bài này nói kỹ
đến chuyện chính phủ Hoa Kỳ đã giúp đỡ rất nhiều chính phủ VNXHCN trong lãnh
vực giáo dục, trong đó có phương án đưa ban giảng huấn là những vị giáo sư của
những Đại học lớn sang Việt Nam giảng dạy.
Năm 1966, khi mới có chương trình này, một người con tôi đã tham gia chương trình ấy cùng với một số giáo sư đến từ những trường như Columbia, Rutger, Brown.. về Việt Nam trong ba tuần. Con tôi khi đó làm giáo sư Toán Áp Dụng vào ngành Quản Trị Kinh Doanh tại MIT (Undergrad Harvard, PhD Stanford).
Chương trình được Hà Nội yêu cầu là về Quản Trị và Kinh Doanh vì khi đó VN không có hay có rất ít nhân viên về những ngành này. Sau chiến tranh VN rất cần chuyên viên về Quản Trị và Kinh Doanh. Con tôi đã kể lại một số kinh nghiệm rất bất ngờ khi về giảng dạy ở Viêt nam:
- Học viên, những người có tuổi, toàn là những vị nắm giữ những chức vị lớn trong chính quyền. Không có sinh viên Đại học.
- Học viên không biết hay biết rất ít tiếng Anh. Trong khi đó ban giảng huấn đến từ Mỷ chỉ nói tiếng Anh, cho nên phải có thông dịch viên của chính phủ gửi đến.
- Ông thông dịch viên nói tiếng Anh rất yếu. Bài giảng lại rất chuyên môn, thông dịch viên rất lúng túng.
Con tôi nhiều khi phải làm thông dịch viên thay thế giúp ông này. Con tôi thấy vậy nên đã quyết định khi khi đến phần mình giảng dạy, sẽ dùng tiếng Việt. Việc chuẩn bị bài giảng rất mất công vì phải dịch sang tiếng Việt trước. Tiếng Việt là chính, tiếng Anh là phụ. Tưởng như thế là tốt là hay lắm, nào ngờ sự việc đã xẩy ra khác hẳn.
Năm 1966, khi mới có chương trình này, một người con tôi đã tham gia chương trình ấy cùng với một số giáo sư đến từ những trường như Columbia, Rutger, Brown.. về Việt Nam trong ba tuần. Con tôi khi đó làm giáo sư Toán Áp Dụng vào ngành Quản Trị Kinh Doanh tại MIT (Undergrad Harvard, PhD Stanford).
Chương trình được Hà Nội yêu cầu là về Quản Trị và Kinh Doanh vì khi đó VN không có hay có rất ít nhân viên về những ngành này. Sau chiến tranh VN rất cần chuyên viên về Quản Trị và Kinh Doanh. Con tôi đã kể lại một số kinh nghiệm rất bất ngờ khi về giảng dạy ở Viêt nam:
- Học viên, những người có tuổi, toàn là những vị nắm giữ những chức vị lớn trong chính quyền. Không có sinh viên Đại học.
- Học viên không biết hay biết rất ít tiếng Anh. Trong khi đó ban giảng huấn đến từ Mỷ chỉ nói tiếng Anh, cho nên phải có thông dịch viên của chính phủ gửi đến.
- Ông thông dịch viên nói tiếng Anh rất yếu. Bài giảng lại rất chuyên môn, thông dịch viên rất lúng túng.
Con tôi nhiều khi phải làm thông dịch viên thay thế giúp ông này. Con tôi thấy vậy nên đã quyết định khi khi đến phần mình giảng dạy, sẽ dùng tiếng Việt. Việc chuẩn bị bài giảng rất mất công vì phải dịch sang tiếng Việt trước. Tiếng Việt là chính, tiếng Anh là phụ. Tưởng như thế là tốt là hay lắm, nào ngờ sự việc đã xẩy ra khác hẳn.
Mấy ông học viên thấy con tôi là người Việt, nói tiếng Việt, tỏ vẻ khinh rẻ cho là chính phủ VN mời GS Mỹ, chỉ GS Mỹ mới dạy họ được thôi. Đến lớp không chịu học, chỉ ngồi tán gẫu với nhau. Họ biết đâu là về phương diện "credential" giáo sư MIT, ở Hoa Kỳ được đánh giá rất cao.
Hồi đó là năm 1996. Có lẽ mấy ông cán bộ đảng viên được cử đi học, khi đó vẫn đang nghĩ chúng ta là Đỉnh Cao Trí Tụê Loài Người. Tên này là dân Mỹ Ngụy. Về đây dám dạy chúng ta!
Từ đó trở đi, con tôi , dù được mời, không bao giờ tham gia một chương trình giáo dục giúp VN nữa.
Trồng cây: mười năm. Trồng người: trăm năm
Đầu
thập niên 90, các chế độ Cộng Sản tan vỡ tại Đông Âu, tan vỡ ngay tại cái nôi
của Cộng Sản là Nga Sô. Cơn ác mộng của nhân loại đã chấm dứt. Lý thuyết Mác Lê
bị vất vào sọt rác. Để sống còn, các đồng chí trong Trung ương đảng của Cộng
Sản Việt Nam bèn "tạo" ra cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh,
dù rằng khi còn sống Bác đã khẳng định là Bác không có tư tưởng
gì cả, Bác Stalin, Bác Mao đã nói hết cả rồi. Bác lại nhấn
mạnh trong Đại hội đảng lần thứ hai tại Tuyên Quang diễn ra vào tháng 2 năm
1951: Không, tôi không có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác Lê.
Hung thần Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn, sau 1954 tập kết ra Bắc, có hỏi thẳng ông Hồ
Chí Minh về tư tưởng của ông thì ông ta cũng trả lời rằng mình không có tư
tưởng gì cả ngoài chủ nghĩa Mác Lê.
Bơ
vơ như những trẻ mồ côi, không còn chỗ để bám víu, nương tựa, các hậu duệ, đệ tử
của Bác đã cố thu thập một số diễn văn, một số phát biểu của Bác
khi Bác còn sinh tiền, để vẽ rắn thêm chân, hoa hòe hoa sói vào rồi đánh
trống gõ mõ, la ầm lên là Đảng ta được võ trang bằng tư tưởng Hồ Chí
Minh. Câu phát biểu của Bác: vì lợi ích 10 năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích 100 năm thì phải trồng người được các đệ tử của Bác
cho là tư tưởng vĩ đại của Bác. Thực ra Bác đã "mượn đỡ" câu
nói của Quản Trọng, đời Chiến quốc: "Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc,
thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên chi kế tại ư thụ nhân (kế một năm thì
trồng lúa, kế 10 năm thì trồng cây, kế trăm năm thì trồng người)".
"Trồng
người", nói nôm na là nhiệm vụ của giáo dục đào tạo và
huấn luyện của một nước. Chuyện giáo dục tại VN trong chế độ Cộng sản giống như
chuyện dài nhân dân tự vệ ngày xưa nghĩa là nói không bao giờ hết, càng nghĩ
càng thấy mọi sự cứ tối mò mò.
Triết
lý giáo dục
Bất
cứ một nền giáo dục nào cũng dựa trên các căn bản gọi là triết lý giáo dục-
theo ông Lâm Văn Bé, một giới chức cao cấp trong ngành giáo dục ở VN trước 1975
- Thời Việt Nam Cộng Hòa, để thiết lập một hệ thống giáo dục mới cho quốc gia,
năm 1958, Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức một Đại hội giáo dục toàn quốc
đã thảo luận và đúc kết một triết lý giáo dục dựa trên 3 nguyên tắc là nhân
bản, dân tộc và khai phóng. Từ triết lý giáo dục này, 3 mục tiêu được đề
ra là:
-
phát triển toàn diện cá nhân.
-
phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
-
phát triển tinh thần dân chủ và khoa học.
Triết
lý giáo dục, cùng 3 mục tiêu kể trên, luôn luôn bàng bạc trong giáo dục ở miền
Nam trong suốt hơn 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa.
Giáo Dục ở VN dưới chế độ CS từ năm 1946 đến nay chưa hề có một
triết lý về giáo dục. Theo ông Tống Văn Công, báo Lao Động của CSVN số ra ngày
24-10-2012 trong bài "Triết lý giáo dục của người Việt"
cho rằng: "Nhiều người cho rằng giáo dục của ta không thấy lối ra vì
không tìm được triết lý giáo dục. Một số Giáo sư khẳng định rằng nước ta chưa
hề có một triết lý giáo dục..."
Không
có một triết lý, nhưng giáo dục Cộng sản có những mục tiêu, đa số - nếu không
nói là hầu hết- là mục tiêu chánh trị và thay đổi thường xuyên. Dù CSVN có rêu
rao Giáo Dục là quốc sách, cần phải thích ứng với nền kinh tế thị trường nhưng căn
bản của nền giáo dục tại VN hiện nay vẫn là giáo dục theo đường lối của Bác
và Đảng. Do đó hệ thống giáo dục của CSVN trên đất nước đã thay đổi
nhiều lần từ năm 1946 ở miền Bắc và trên cả nước từ sau năm 1975 sau khi chiếm
được miền Nam; nhưng kết quả là giáo dục ở VN vẫn còn trong tình trạng hỗn loạn
và lạc hậu, không đáp ứng được những khát vọng của toàn dân. CSVN đã đao to búa
lớn đề ra các chiến lược về giáo dục như:
-
Chiến lược phát triển giáo dục do Thủ tướng Phan Văn Khải ban
hành ngày 28-12-2001.
-
Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020 do Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
ban hành ngày 13-6-2012.
Các
chiến lược phát triển giáo dục kể trên đều đề ra mục đích chánh trị là phát
huy và củng cố thể chế CS trên đất nước Việt Nam.
Kết
quả là sự thay đổi ở cấp Phổ thông (tiểu học và trung học) như người ta thay
đổi áo. Cấp Đại Học thì bát nháo, hỗn loạn. Các trường Đại Học tư, Đại Học công
mọc lên như nấm. Đại Học VN, giờ đây, là một thứ chợ trời, người mua, người bán
tấp nập.
Thời
VNCH (1955-1975), khởi đầu chỉ có 2 Viện Đại Học: ĐH Sài Gòn và ĐH Huế. Mặc dù
phải đối phó với cuộc chiến xâm lược đẫm máu và khốc liệt của CS Bắc Việt (một
cuộc chiến toàn diện nhắm vào mọi khía cạnh của cuộc sống tại Miền Nam), nền
giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bực, đáp ứng được nhu cầu gia
tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có khả năng, thực sự
đáp ứng được các nhu cầu phát triển của đất nước. Trước ngày 30 tháng 4 năm
1975, VNCH, tuy có chiến tranh tự vệ triền miên, Giáo Dục vẫn không ngừng phát
triển, tiến bộ không thua gì các nước khác ở Đông Nam Á. Luyến tiếc một thời xa
xưa, ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại một nền Giáo Dục của VNCH trong xứ mạng
trồng người cho quê hương miền Nam.
Trong
thời VNCH:
- Có 4 Viện Đại Học (VĐH) công lập: VĐH Sài Gòn, VĐH Huế, VĐH Cần
Thơ, Viện ĐH Bách Khoa Thủ Đức(1974) có tiền thân là Trung Tâm Quốc Gia Kỹ
Thuật (1957) và Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật (1972).
-
Các Viện Đại Học tư: VĐH Đà Lạt, VĐH Vạn Hạnh, VĐH Phương Nam, VĐH An Giang, VĐH
Cao Đài, VĐH Minh Đức các Học Viện chuyên biệt như Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh, Trường Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt, Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp
(1972-1974).
-
Các Đại Học Cộng Đồng (ĐHCĐ) được mở ra từ năm 1971 theo mô hình Community College
của Hoa Kỳ như: ĐH CĐ ở Tiền Giang; ĐHCĐ ở Duyên Hải; ĐHCĐ Quảng Đà ở Quảng
Nam, Đà Nẵng; ĐHCĐ Long Hồ ở Vĩnh Long.
Dưới
thời Xã Hội Chủ Nghĩa:
Các
ĐH mọc lên như nấm, hồng nhiều hơn chuyên theo đúng đơn đặt hàng của đảng CS và
nhà nước XHCN, Năm 2000, VN có 178 trường Đại Học và Cao Đẳng; năm 2012, VN có
419 trường. Tỷ lệ tăng 250% chỉ trong có 12 năm. 20% là các Đại Học tư thục. Có
lẽ VN dưới thời xã hội chủ nghĩa, là nước độc nhứt trên thế giới, trường Đại
Học được mở trước khi có trụ sở và nhân viên giảng huấn cơ hữu. Kết quả là sự
yếu kém của Đại học VN so với các nước ở Đông Nam Á. Còn giáo dục ở bậc Tiểu
học và Trung học là cả một ác mộng cho các phụ huynh:
-
Chương trình học thay đổi như chong chóng.
-
Xin được cho con em vào học là cả một mốt ưu tư, một ác mộng cho các bậc cha mẹ.
Nào là phải hối lộ, phải tốn tiền- rất nhiều tiền- không kể tiền phí tổn ở các
lớp học thi, các lớp dậy kèm.
Giáo
Dục và Đào Tạo ở VN hiện nay hay nói nôm na trồng người ở VN, theo thống
kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2011-2012, có một đội ngũ nhân viên giảng
huấn là 84,109 người trong đó có 9.152 (11%) Tiến sĩ, 36.360 Cao học mà VNCS
gọi là Thạc sĩ (43%) 38.579 Cử nhân (46%). Chỉ có độ 10% Tiến sĩ được đào tạo
tại ngoại quốc. Bằng cấp cứ loạn cào cào, không ra cái thể thống gì. Ai cũng là
Tiến sĩ, Thạc sĩ. Trong 16 thành viên của Bộ Chánh Trị, tất cả đều có học vị
Tiến sĩ, trừ 1 thành viên gốc thiểu số, bà Tòng Thị Phóng, chỉ có Cao học.
Trong số 20 Bộ Trưởng trong Chánh Phủ CS hiện nay, có 12 ông Tiến Sĩ. Ngay cả
ông Bộ Trưởng Công An cũng đeo bằng Tiến sĩ. Các Đại tá, Tướng lãnh viết bài
trên các báo chí của nhà nước đều để thêm tước vị Tiến sĩ hoặc Thạc sĩ bên cạnh
cấp bậc trong quân đội.
Trong
một Hội nghị về Giáo Dục do Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức ngày 31 tháng 7 năm 2013,
Phó Chủ tịch nước, GS Tiến sỹ Nguyễn Thị Doan (lại một tiến sĩ nữa) trăn trở "số
học sinh ra trường càng ngày càng đông, tiến sĩ, thạc sĩ càng ngày càng nhiều
nhưng tại sao đất nước chậm đổi mới và có vẻ tụt hậu xa so với các nước khác
trong khu vực". Có người chỉ ở VN, không biết tiếng Anh, cũng có bằng
Tiến sĩ sau khi nộp đủ tiền cho một ĐH "dỏm" ở Mỹ. Bộ Giáo Dục và Đào
tạo của CS còn rêu rao là cho tới năm 2020, sẽ đào tạo ra 20.000 Tiến sĩ. Cũng
cho tới năm 2020, dự án trù liệu VNCS sẽ có 1 triệu kỹ sư đạt trình độ quốc tế.
Thực là một hoang tưởng của những người đang đi trên mây, của những người bị
bệnh mộng du (schizophrenia)?
Với
đội ngũ Tiến sĩ đông đảo như vậy, mỉa mai thay Đại Học VN lại không có tên
trong Bảng xếp hạng 200 ĐH hàng đầu trên thế giới. Thực là trái núi đẻ ra
con chuột.
Theo
Tiến sĩ Lê Văn Út (Toán học Phần Lan), từ năm 2006 đến năm 2010, VN chỉ có 5
bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ. Năm 2011, không có bằng sáng chế nào được
đăng ký. Nếu so sánh với các quốc gia vùng Đông Nam Á ít dân hơn VN, có trình
độ kỹ thuật kém hơn hay ngang hàng với Miền Nam VNCH trước 1975, ngày nay VN
của Xã Hội Chủ Nghĩa đang bị bỏ xa. Tân Gia Ba (645 bằng sáng chế/ 4.5 triệu
dân), Mã Lai (161 bằng sáng chế/ 28 triệu dân), Thái Lan (53 bằng sáng chế / 68
triệu dân), Indonesie (7 bằng sáng chế / 230 triệu dân), Brunei (1 bằng sáng
chế / 0.5 triệu dân). Về số lượng các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí
khoa học quốc tế, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc): tổng số các bài nghiên cứu khoa
học của cả nước VN chỉ tương đương hay không bằng số bài của 1 trường đại học ở
Thái Lan hay ở Mã Lai. Thực là xấu hổ cho một nước mà ở đâu cũng có Tiến sĩ,
Thạc sĩ. Tóm lại, CSVN đã thất bại thê thảm trong công cuộc trồng người cho
đất nước.
Hậu
quả tai hại của nền giáo dục của CSVN từ 40 năm nay đã và đang ảnh hưởng đến
giới trẻ VN, ảnh hưởng trên toàn đất nước về mọi phương diện. Hệ lụy của nó sẽ
kéo dài trên vài thế hệ con dân đất Việt.
Giáo
Dục Hoa Kỳ và Việt Nam
Trong
21 năm hiện hữu của Việt Nam Cộng Hòa, ảnh hưởng của giáo dục Mỹ mới ở thời kỳ
bắt đầu trong các ngành kỹ thuật, trong Y Khoa qua những Giáo Sư, chuyên viên
được đào tạo ở Mỹ. Nhưng chưa có một trường học Mỹ nào - từ Trung Tiểu học
cho đến Đại học Mỹ - được mở ra ở Miền Nam.
Từ
thượng cổ, Giáo Dục vẫn là một vũ khí lợi hại trong việc tiến chiếm để đô hộ các
nước, biến người dân các thuộc địa thành những người trung thành với mẫu quốc.
Trung Hoa đã thành công trong việc đô hộ rồi đồng hóa các nước nhỏ ở chung
quanh, biến dân của các nước này thành những người Trung Hoa chỉ trong vài thế
hệ. VN đã bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm nên dân tộc Việt đã chịu ảnh hưởng
nặng nề giáo dục của Trung Hoa nhưng VN không bị đồng hóa.
Sang
thời kỳ Pháp thuộc gần 100 năm, VN lại chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Âu. Văn tự
Việt theo lối La Mã là do Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591-1660), một Giáo sĩ
Giòng Tên người Pháp, đưa vào VN thay thế cho chữ Nôm - một loại chữ viết giống
như chữ Nho của người Tầu. Kết quả VN là nước duy nhứt ở Á Châu dùng chữ La Mã
làm quốc ngữ, muôn vàn ích lợi cho dân Việt. Đi kèm với việc khai hóa, khai
thác, người Pháp đã xây dựng cả một hệ thống các trường Trung, Tiểu học ở VN.
Đại Học Hà Nội, Đại Học Sài Gòn được người Pháp dựng lên cho toàn cõi Đông
Dương Việt Miên Lào vào đầu thế kỷ 20. Ông Hoàng Norodom Sihanouk (Cao Miên),
các Hoàng thân Lào Souvana Phouma, Souphanuvong đều sang VN du học.
Sau
khi đã chiếm được Miền Nam năm 1975, CSVN đã tìm cách dẹp bỏ hoàn toàn các dấu
vết của giáo dục Âu Tây ở VN. Các trường học ngoại quốc, các Trung Tâm Văn Hóa
ngoại quốc bị đóng cửa, cấm hoạt động. Những người có quá khứ du học tại Mỹ bị
cho vào tù, bị kết tội hoạt động gián điệp cho CIA của Mỹ. Một Viện Bảo Tàng
Chiến tranh được lập ra ở Sài Gòn để kết tội Mỹ.
Sau
40 năm thất bại trong tiến trình áp đặt chế độ CS lên quê hương khiến đất nước
càng ngày càng kiệt quệ suy sụp, CSVN, hơn bao giờ hết, đang lạy van, cầu xin
Hoa Kỳ trở lại VN.
Hoa
Kỳ đang trở lại VN, nhưng bằng một chiến lược gọi chiến lược mềm (soft
strategy), đó là đưa giáo dục Mỹ vào VN. Trong lịch sử, Hoa Kỳ không đô
hộ để khai thác bất kỳ một lãnh địa, một quốc gia nào nhưng các chương trình
của Mỹ Quốc, thiết lập sau đại chiến thế giới thứ 2 như Plan Marshall, Chương
trình Học bổng Fulbright... đã đưa "truyền thống Mỹ, văn hóa Mỹ"
đến mọi nước trên thế giới. Tưởng cũng nên nhắc lại, giáo dục đại học của Mỹ đã
đóng một vai trò không nhỏ trong cuộc chiến tranh ý thức hệ với khối Cộng Sản,
chiến tranh lạnh với Nga Sô.
Ngay
cả trước khi bỏ cấm vận và nối lại bang giao với Việt nam vào năm 1995, Hoa
Kỳ đã coi việc đầu tư vào giáo dục kiểu Hoa Kỳ vào VN là hình thức hữu hiệu
nhứt làm biến đổi kẻ thù xưa với mục đích ảnh hưởng đến các thế hệ lãnh đạo
VN trong tương lai. Nhiều phái đoàn giáo dục Hoa Kỳ, nhiều GS Hoa Kỳ với tư
cách cá nhân, đã đến VN. Phúc trình của ĐH Harvard, sau khi quan sát, đã nói
đến những yếu kém của hệ thống Đại học của VN, đề nghị những phương cách sửa
đổi.
Hoa
Kỳ nói thẳng, không úp mở, về ý định chuyển hóa VN bằng con đường giáo dục.
Hoa
Kỳ có cơ hội chuyển hóa nền Giáo Dục tại VN, để về lâu dài, khiến nước này trở
nên dân chủ hơn, tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền tự do ngôn luận hơn, để
rồi liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ.
(The
US has the opportunity to shape the Vietnamese Education System in a way that,
in the long term, will result in a VietNam that will be more democratic, more
respecful of human rights and freedom of speech, and therefore more closely
tied to the United States.)
Vả
lại trước cơn khủng hoảng về Giáo Dục và Đào Tạo, trước tương lai mờ mịt của đất
nước vì nền giáo dục quá yếu kém, VNCS không còn chọn lựa nào khác, đã cầu khẩn
Hoa Kỳ trợ giúp. Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện Nhân, một người đã học ở Hoa
Kỳ theo chương trình Học bổng Fulbright, trong một lần gặp gỡ Đại Sứ Mỹ Michael
Michalak, đã cầu xin Hoa Kỳ giúp đỡ VN trên 2 lãnh vực:
-
Mở Đại Học Mỹ ở VN.
-
Đào tạo 2,500 PhD ngay tại Hoa Kỳ cho VN từ nay(2008) cho đến năm 2020.
Cũng
trong thời gian đó ở trong nước, VN hứa hẹn sẽ đào tạo 20,000 PhD. Hiện nay
Vietnamese Education Fund của Mỹ tài trợ mỗi năm khoảng 70 Học viên sang Mỹ học
PhD.
Cựu
Đại Sứ Mỹ Michael Michalak tại VN: người hăng hái cổ động viện trợ giáo dục cho
VN.
Trong
chuyến du hành sang Hoa Kỳ của Thủ tướng VNCS Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 6 năm
2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ James Glassman và Ông Phạm Vũ Luận, Thứ
trưởng Giáo Dục và Đào tạo của VN đã ký kết Bản Hợp Tác về Giáo Dục giữa hai
nước.
Hiện
nay có khoảng hơn 60 Đại Học Hoa Kỳ có chương trình liên kết (joint program)
với các ĐH của Việt Nam.
Học
bổng Fulbright
Thành lập năm 1946 bởi Thượng Nghị Sĩ J William Fulbright
(1905-1995) với mục tiêu:
-
Để công dân Hoa Kỳ có thể theo học, khảo cứu... tại ngoại quốc.
-
Công dân các nước trên thế giới có thể đến Hoa Kỳ để học hoặc khảo cứu trong đủ
mọi ngành từ khoa học đến văn chương, báo chí.
Đây
là một học bổng danh tiếng vào bậc nhứt của Hoa Kỳ trên thế giới. Kể từ ngày
thành lập, 43 người được giải Nobel đã từng được học bổng Fulbright, cũng như
78 người được giải Pulitz
ers
là những người được học bổng này trong quá khứ.
Ngoại
Trưởng HK Hillary Clinton tại lễ kỷ niệm
20
năm Fulbright tại Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội ngày 10/7/2012.
Cho
tới nay, sau 20 năm hiện hữu, chương trình học bổng Fulbright đã đưa hơn 1,000
giáo sư, học giả, sinh viên VN sang Hoa Kỳ để học tập, nghiên cứu trong mọi
ngành tại các Đại Học danh tiếng. Học bổng Fulbright được hiện hữu ở VN từ năm
1992, tức là 3 năm trước khi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ được TT Bill Clinton bãi
bỏ, quan hệ bình thường giữa 2 nước đượn nối lại năm 1995.
Quỹ
Giáo Dục Việt Nam
Quỹ Giáo Dục Việt Nam (VietNam Education Fund) do Hoa Kỳ thành lập và tài trợ từ năm 2,000. Các thành viên trong
Hội Đồng Quản Trị của Quĩ Giáo Dục đều do Tổng Thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Quỹ Giáo Dục VN (QGDVN) hoạt động trong tư cách độc lập, không qua
trung gian các công ty tư vấn giáo dục ở trong hay ngoài nước. Kể từ khi chánh
thức hoạt động năm 2003 cho đến nay, QGDVN đã cấp học bổng cho 389 nghiên cứu
sinh Việt Nam sang học các Đại Học danh tiếng của Hoa Kỳ.
Có 83 người đã hoàn tất bằng Tiến sĩ.
Nhân
viên của Trường Washington State University đang tư vấn
cho
sinh viên VN tại Hội chợ Giáo Dục USA tại Hà Nội 8/4/2011.
Trung
tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ
Education
USA là một mạng lưới toàn cầu với hơn 400 văn phòng tư vấn giáo dục
trên thế giới. Trung tâm tư vấn giáo dục Education USA quảng bá giáo dục bậc
đại học của Hoa Ký. Tại Việt Nam, 2 trung tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ, trực
thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã được thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn để giúp những
sinh viên muốn du học Hoa Kỳ. Trung tâm giải đáp mọi thắc mắc, thông tin cập
nhật về các điều kiện, cơ hội học tập ở Hoa Kỳ.
Hỗ
trợ trực tiếp Giáo Dục tại VN
Hồi
tháng 2 năm 2013, Ngân Hàng Thế Giới đã viện trợ cho VN 150 triệu dollars để
giúp VN cải tổ giáo dục, theo đó 50 triệu dollars dược dùng để hỗ trợ cho Chánh
sách phát triển Đại Học, tăng cường quản trị tài chánh, chất lượng giáo dục.
Trong
khi đó, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu viện trợ cho VN 90 triệu Mỹ Kim cho giáo
dục ở bậc trung học phổ thông.
Giáo
Sư Mỹ sang giảng dạy tại VN
Quỷ Giáo Dục VN (Vietnam Education Fund) tài trợ và tổ chức chương trình đưa Giáo Sư Mỹ thuộc các Đại học
hàng đầu của Hoa Kỳ sang giảng dạy tại VN. Chương trình này đã bắt đầu từ năm
2008. Các GS Mỹ sẽ giảng dạy bằng tiếng Anh. Bà Virginia Palmer, Phó Đại Sứ Mỹ
tại VN khẳng định: Chương trình đưa các GS Mỹ sang giảng dạy tại VN là một
trong những ưu tiên cao nhứt của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác với VN
trong lãnh vực giáo dục.
Kể
từ năm 2008, đã có 11 GS Mỹ giảng dạy tại VN theo chương trình này. Năm 2012, đã
có thêm 6 GS nữa sang VN giảng dạy.
Hê
thống các trường Mỹ tại VN
Hiện
nay một hệ thống các trường gọi là trường Trung học và trường Tiểu học Việt Mỹ
đã được mở ra tại nhiều nơi ở VN như tại Vĩnh Long, Cần Thơ, Vũng Tầu, Sài Gòn,
Hà Nội. Chương trình đặt nặng phần Anh Ngữ do những người Mỹ giảng dạy. Học phí
rất cao, từ 7,000 tới 8,000 dollars một năm. Chỉ có con cháu các cán bộ đảng
viên, con cháu các đại gia mới đủ tiền theo học.
Các
nước khác như Úc, Pháp, Đức và Tân Tây Lan cũng đang cố gắng xuất cảng nền giáo
dục của họ sang Việt Nam:
-
Pháp đã cho các chuyên viên, các Bác sĩ VN sang du học tại Pháp.
-
Một số trường trung tiểu học của Pháp như hệ thống trường trung, tiểu học, colege
đã được mở cửa hoạt động ở Sài Gòn.
-
Viện Tim học tại Sài Gòn do Pháp lập ra và viện trợ từ nhân lực đến tài lực.
-
Hai nhà thương Pháp- Hopital Franco-Vietnamien được Pháp mở ra tại Sài Gòn và Hà
Nội.
Du
học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ
Hiện
nay có khoảng 15.000 du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ (đứng hàng thứ 8 trong
danh sách du học sinh ngoại quốc ở Mỹ), trong đó những du học sinh được học
bổng của Hoa Kỳ để đi du học chỉ chiếm một phần nhỏ, số còn lại là các du học
sinh du học với tính cách tự túc. Các ứng viên được Học bổng do Hoa Kỳ cấp, như
học bổng Fulbright, đều được Hoa Kỳ chọn lựa rất kỹ càng để du học sinh có thể
bắt kịp chương trình của các ĐH nổi tiếng tại Hoa Kỳ. CSVN cũng đã lợi dụng sự
cởi mở của các ĐH ở Hoa Kỳ (cũng nên biết ở Hoa Kỳ có nhiều loại Đại Học khác
nhau. Có những ĐH chỉ cần đóng đủ tiền là được ghi danh theo học) nên các cán
bộ, viên chức chánh phủ CS đưa con cháu sang Hoa Kỳ để theo học. Học phí, đời
sống ở Mỹ không rẻ nên có lẽ chỉ có con cháu các đảng viên, các đại gia CS mới
đủ khả năng du học ở Mỹ. Vì chỉ có bọn CSVN "ăn cắp ngày" này mới có
đủ tiền cho con cháu đi ra nước ngoài học hỏi. CSVN đang đầu tư vào đám con
cháu đang du học tại ngoại quốc, tại Mỹ; đầu tư cho tương lai của bản thân gia
đình của họ, chứ không phải đầu tư cho quê hương xứ sở. Đám "cộng
con" này sẽ nối nghiệp cha, chú của chúng để tiếp tục "muôn
năm trường trị", đè đầu cưỡi cổ người dân.
Tuy
vậy, người ta cũng có một chút hy vọng hy các con cháu của Bác và đảng,
sau khi bị tiêm nhiễm ý niệm tự do, dân chủ bởi giáo dục Mỹ, bởi đời sống ở Mỹ,
sẽ không ít thì nhiều thay đổi đời sống chính trị tại quê nhà. Vâng, chỉ là hy
vọng thôi!!
Tóm
lại người Mỹ đang có kế hoạch biến đổi Việt Nam bằng con đường giáo dục, một kế
hoạch lâu dài.
Người
Việt quốc gia, người Việt tỵ nạn CS tại khắp mọi nơi trên thế giới chỉ mong
muốn một điều là chế độ CS, một chế độ phản lại lương tâm của loài người, phải
bị đào thải sớm chừng nào hay chừng đó để dân tộc VN có được dân chủ. Đó là
điều kiện tiên quyết cho tiến bộ, cho viễn tượng theo kịp các nước khác ở Đông
Nam Á. Trong hợp tấu khúc tiến bộ của nhân loại, VN sẽ không là một nốt nhạc
thừa vô nghĩa. Quê hương đang mất dần về tay Trung Cộng do sự cấu kết của tập
đoàn CSVN. Chỉ có tự do dân chủ không Cộng Sản mới cứu được quê hương, đánh bại
kẻ thù đang xâm lược.
Montréal,
Canada
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching