Matthew Trần:
Tôi xin chuyễn tiếp tài liệu zưới đây cũa bạn Nguyễn Nhân Trí với đè tài: "Mê tín trong Phật giáo" nhưng tuyệt đối không góp ý-kiến đễ độc zã trên Net rộng đường zư luận.
Thân ái,
MT
From:
anh sang <
Sent: Tuesday, February 2, 2016 6:37 PM
Subject: Nguyễn Nhân Trí: Mê tín trong phật giáo
Sent: Tuesday, February 2, 2016 6:37 PM
Subject: Nguyễn Nhân Trí: Mê tín trong phật giáo
“Mê tín” thường được hiểu là “tin vào
những gì mê hoặc, sai lầm”. Có một định nghĩa nữa, khách quan hơn, đó là “những
niềm tin hay ý niệm phát xuất từ lòng dễ tin không dựa trên lý lẽ hay kiến thức
– nhất là khi những niềm tin hay ý niệm nầy không cần có bằng chứng vững vàng
và đầy đủ.”
Tôi cho rằng đa số quan điểm tín ngưỡng
và thực hành trong Phật Giáo ngày nay nằm trong hai định nghĩa trên.
Theo tôi, tôn giáo mang hai bản chất cơ
bản đó là huyễn hoặc và nô lệ hóa. Phật giáo không là một trường hợp ngoại lệ.
Khi nói về “huyễn hoặc”, tôi muốn đề cập
đến vô số những huyền thoại diễn tả thần phật, tiên thánh, ma quỷ, phép mầu
trong hầu hết tất cả kinh điển Phật giáo.
Theo tôi, các huyền thoại đó không phải
là nền tảng cơ bản trong triết lý của Thích Ca Mâu Ni. Theo tôi, nếu nhìn kỹ
vào lịch sử Phật Giáo thì sẽ thấy là những huyền thoại đó đã được tăng sư, chủ
yếu là của phái Đại Thừa, thêu dệt thêm trong quá trình truyền chép kinh điển
qua nhiều thế kỷ.
Nói cách khác, theo tôi thì đa số những gì truyền dạy trong
Phật giáo Đại Thừa đều là mê tín dị đoan; còn nguyên lý tín ngưỡng của Phật
giáo Tiểu Thừa thì tuy phản ảnh trung thực hơn những gì Thích Ca đã dạy nhưng
cũng vẫn không tránh khỏi nhiều vấn đề huyền bí huyễn hoặc.
Hậu quả tai hại nhất của sự “huyễn hoặc”
nầy là hiện tượng mê tín dị đoan lan tràn trong Phật Giáo. Đây là vì tăng ni,
và Phật tử đại chúng, đã đem các huyền thoại kể trên ra để biến chế ý tưởng cơ
bản của Phật pháp và pha trộn những tín ngưỡng dân gian khác vào nhau để tạo
thành phương cách thực hành đạo pháp của họ.
Có những mê tín dị đoan rất rõ rệt hiện
đang phổ biến tại nhiều chùa chiềng trong và ngoài nước Việt Nam như cúng sao
giải hạn, cầu vong, cầu siêu, cầu phước, bói toán, xin xâm, xin keo, chuộc giải
bùa ngải, coi ngày, coi tuổi, cúng đốt vàng mã, v.v. Nếu chính các tăng ni sư
thực hành những điều nầy thì trách sao Phật tử đại chúng chẳng noi gương làm
theo.
Ngoài ra còn có một
dạng mê tín dị đoan khác khó nhận thấy hơn vì qua nhiều thế kỷ chúng đã được
che đậy dưới lốt áo "Phật pháp". Dạng mê tín dị đoan nầy liên quan
đến các khái niệm như "Tây Phương Cực Lạc", "đầu thai",
"nhân quả" mà tôi trình bày chi tiết ở các tiểu luận khác.
Yếu tố “nô lệ hóa” trong Phật Giáo tuy
không rõ rệt bằng nhưng vẫn mạnh mẽ và lan tràn tương tự như trong các tôn giáo
độc thần như Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
“Nô lệ hóa” là vì tín đồ Phật Giáo vẫn bị
đe dọa bởi những ý niệm như thất đức, tội lỗi, v.v. cũng như bị khuyến dụ bởi
những hứa hẹn như Niết Bàn, có phước, được phù hộ, v.v. “Nô lệ hóa” là vì Phật
tử có khuynh hướng tòng phục sư tăng vì tin rằng họ có những quyền phép đặc
biệt để cứu độ Phật tử, nắm giữ tiêu chuẩn đạo đức, có đạo đức hơn người
“thường”, v.v.
Ngoài ra, Phật giáo cũng không tránh được
cái tệ nạn khi giới tu sĩ lạm dụng Phật pháp để phục vụ ích lợi riêng. Những
lợi ích riêng nầy mang đủ dạng từ tiền bạc, địa vị, uy quyền, chính trị cho đến
tình cảm, tình dục.
Phương cách thực hành
của Phật Giáo trong xã hội có nhiều khiếm khuyết trầm trọng.
Thí dụ, nhìn vào các bảng tuyên dương
công đức, sổ vàng cúng dường chiếm ngữ ngay tiền sảnh các chùa miếu cùng với
việc các “thầy” chú trọng vào việc gây quỹ để tranh nhau xây cất chùa lộng lẫy
huy hoàng, dựng tượng Phật to lớn vĩ đại, v.v, tôi không khỏi kết luận rằng
phần lớn cái gọi là đạo Phật ngày nay đã bị lạm dụng để biến thành một phương
pháp mưu lợi cầu danh.
Có người cho là là vì tôi không hiểu
thuyết Phật nên mới kết luận như vậy. Vì vậy tôi cần nhấn mạnh là ở đây tôi
không nói về lý thuyết cơ bản của Phật Giáo. Ở đây tôi đang nói về cái Phật
Giáo đang được vô số (đại đa số) Phật tử tin, áp dụng và thực hành ngày nay.
Có người cho rằng tôi không nên dựa trên
sự hiểu biết và cách thực hành của một số Phật tử để đánh giá Phật Giáo. Để trả
lời tôi sẽ dùng một sự so sánh giữa tôn giáo và ngôn ngữ dưới đây.
Trong ngôn ngữ thỉnh
thoảng có những từ ngữ mới được đặt ra bởi ai đó; nếu các từ ngữ mới nầy được
nhiều người hiểu, dùng và phổ biến sâu rộng thì chúng sẽ trở thành một phần của
ngôn ngữ ấy (và nếu ít ai dùng đến thì chúng sẽ dần dần biến mất đi).
Trong ngôn ngữ cũng
thường có nhiều từ ngữ mà ý nghĩa nguyên thủy của chúng được thay đổi dần theo
thời gian và bối cảnh xã hội; nếu đủ số người hiểu và dùng chúng theo cách mới
thì chúng sẽ dần dần chính thức mang những ý nghĩa mới.
Tôn giáo cũng tương tự như ngôn ngữ. Ý
nghĩa và đặc thù của mỗi tôn giáo được xác định và biến đổi bởi những gì số
đông tín đồ hiểu biết, nhìn nhận và thực hành.
Tôi biết rằng những điều tôi diễn tả ở
trên đều chỉ là những sự kiện và hiện tượng mà tôi thấy về Phật Giáo chớ không
phải là lý thuyết nguyên thủy thật sự của Thích Ca.
Nhưng đây chính là cái lý
thuyết và bản chất của cái Phật Giáo mà đa số Phật tử nhận biết và thực hành.
Bất kể lời Thích Ca thật sự truyền dạy ra sao đi nữa, chỉ có cái hình thức của
đạo Phật mà đa số Phật tử đang hiểu và hành là cái đạo Phật được mọi người nhận
diện. Và đây cũng chính là cái đạo Phật mà tôi đánh giá.
Tôi cho rằng phần đông
Phật tử ngày nay đều mê tín và phần đông chùa chiềng sư sãi đều mưu lợi cầu
danh cả. Tuy tôi không có dữ kiện đầy đủ để đưa ra con số chính xác nhưng theo
những gì tôi nhìn thấy thì tôi cho rằng đại đa số Phật tử và tăng sư nằm trong
thành phần nầy.
Cách truyền dạy Phật Giáo cũng giống như
các tôn giáo khác, Phật tử dựa vào giới tăng lữ để truyền giảng Phật pháp. Giới
tăng lữ cũng đóng vai trò lãnh đạo trong việc xác định và phổ biến các quy luật
từ việc nghi lễ, cúng bái cho đến tiêu chuẩn đúng sai, xấu tốt lẫn phong cách
sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Thế mà qua không biết bao nhiêu thế hệ nay,
vô số tăng sư qua lời nói và hành động của họ đã bóp méo lý thuyết Phật pháp cơ
bản và truyền dạy những điều sai lầm mà theo tôi chỉ đáng liệt vào mê tín dị
đoan.
Một thí dụ tiêu biểu và quảng bá rộng rãi
nhất là quan niệm nếu tụng niệm bao nhiêu hồi kinh gì đó, cầu thỉnh hình tượng
Phật gì đó đem về nhà thờ, cúng dường bao nhiêu tiền hay xây cất trùng tu chùa
miếu gì đó, v.v. thì sẽ được nhiều phước đức và do đó sẽ được phù hộ cho tai
qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình êm ấm, tình duyên thuận lợi, v.v. Đây
là một cách mà "luật Nhân Quả" và khái niệm "nghiệp phước"
đã và đang được diễn giảng và truyền bá lan tràn trong Phật Giáo. Đây cũng là
lý do chính tại sao vô số Phật tử đến chùa xì xụp bái lạy trước các hình tượng
Phật sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Có người cho rằng Phật tử làm những điều
đó không có hại gì cho ai cả. Tôi cho rằng tuy không trực tiếp làm hại đến ai
nhưng cách diễn giải sai lầm về luật Nhân Quả nầy đi ngược hẳn với lời dạy của
Phật rằng “tự mỗi người phải hành đạo để tự giải thoát mình vì không ai, kể cả
Phật, có thể cứu độ ai khác được”.
Và những quan niệm sai lầm loại nầy cũng
dẫn đến những phương cách hành đạo kỳ hoặc. Thí dụ như nhiều Phật tử được dạy
rằng nếu trả tiền cho người khác tụng kinh thì họ cũng được phước giống như tự
họ tụng kinh. Việc trả tiền nầy thường được Phật tử dùng một mỹ từ là “cúng
dường”. Nhiều người tuy muốn có phước nhưng vì không có thời giờ, hay kiên
nhẫn, tụng kinh nên thường “cúng dường” cho các tăng sư để tụng kinh thay thế
giùm họ.
Trong những năm gần đây, phương cách hành
đạo kỳ hoặc vừa kể trên đã bước thêm bước nữa để trở thành quái đản: nhiều vị
tăng sư dùng thời giờ rảnh rỗi để tụng sẵn trước những tạng kinh “thịnh hành”.
Những vị tăng sư nầy ghi sổ cẩn thận số lần họ đã tụng các tạng kinh nầy; đến
khi Phật tử nào cần thí dụ như 120 thời kinh Pháp Hoa chẳng hạn thì họ chỉ cần
trả một số tiền đã quy định trước cho một vị tăng sư rồi vị nầy sẽ “hồi hướng”
120 thời kinh Pháp Hoa (mà ông đã tụng sẵn rồi) qua cho Phật tử trên.
Vị tăng
sư nầy rồi sẽ xóa bỏ 120 thời kinh Pháp Hoa ra khỏi danh sách lưu trữ của ông.
Việc tụng kinh trả tiền đã phổ biến thành một hệ thống kinh doanh có quy củ,
bài bản hẵn hòi.
Tôi cũng thường phê bình về những chuyện
thờ cúng rườm rà, lọng đón, chuông đưa, khẩn cầu Trời Phật, bái lạy tăng sư,
đúc tượng, phóng sinh, v.v. thường thấy ở các chùa chiền.
Nhiều người cho rằng
đó chỉ là đặc thù của Phật giáo khi tín đồ muốn biểu hiện lòng tin của họ một
cách công khai giữa chốn đông người. Và họ cho rằng vì thế thì không nên
chấp nhất mà phê bình, chỉ trích làm gì nhất là khi những việc làm trên tuy
không đúng với thuyết Phật dạy nhưng cũng không làm hại đến ai cả.
Trước nhất, những người đó không thấy
rằng chuyện hành đạo trái hẳn với thuyết Phật dạy như vậy thật ra có tác dụng
làm hư hoại cả đạo lý lẫn hành giả của Phật giáo. Nói cách khác nó làm hư hoại
chính các Phật tử như họ và làm hư hoại cả hệ thống triết lý, tư tưởng của Phật
Giáo.
Những chuyện làm nầy tạo ra cơ hội để các tăng sư gian tham mưu danh cầu
lợi dễ dàng, làm cho Phật tử càng ngày càng ngu muội hơn cũng như hao công tốn
của mà không được lợi ích gì cho quá trình phát triển tâm linh thật sự của họ
cả.
Thứ hai, chính cách suy nghĩ và thái độ
trên đã gián tiếp dung dưỡng để các điều sai trái trên tiếp diễn và bành trướng
mãi trong Phật Giáo.
Những sự việc tệ hại vừa kể trên chỉ là
vài thí dụ tiêu biểu của vô số những sự việc tương tự khác phổ biến trong Phật
Giáo.
Phần lớn Phật tử, kể cả giới tăng lữ, vì
thiếu hiểu biết và vì tham lam nên đã diễn giải sai lạc và áp dụng, thực hành
thuyết Phật một cách mê muội.
Dù muốn dù không, Phật Giáo được nhận
diện và đánh giá dựa trên những hành động và nhận thức của Phật tử. Những sự
việc tệ hại trên rất có thể đã bắt đầu xảy ra ngay từ lúc Phật Giáo mới thành
hình; chúng đang thịnh hành ngày nay và hầu như chắc chắn chúng sẽ tiếp tục xảy
ra cho đến ngày Phật Giáo tàn lụn.
Nguyễn Nhân Trí
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching