From: khaitrongvu0
Date: Thu, 13 Feb 2014 15:12:11 -0800
Subject: Ủy Ban Chống Bắc Thuộc: Mối lo phương Bắc.
Date: Thu, 13 Feb 2014 15:12:11 -0800
Subject: Ủy Ban Chống Bắc Thuộc: Mối lo phương Bắc.
Kính chuyển.
" Kính gởi Quý Vị
Để Tường
và xin giúp phổ biến"
Trân trọng
Ngưòi chuyển.
Vũ Trọng Khải
Date: 13 February 2014 14:08:53
AEST
To:
<
Subject: Mối lo phương Bắc.
Subject: Mối lo phương Bắc.
MỐI LO PHƯƠNG BẮC
(Trích đoạn trong sách “Nghĩ
Về Ngày Mai Đất Nước”)
Dẫn nhập
Sau khi bức Tâm Thư cảnh báo về đại họa
Bắc thuộc từ UBCBT được gởi đi, trong những ngày gần đây, chúng tôi đã
nhận được rất nhiều thư hồi đáp của các thân hữu, từ nhiều nơi trên
thế giới với những đóng góp thơ văn, bài vở, sách, phim ảnh và rất nhiều
khuyến khích, hỗ trợ tinh thần cũng như những cam kết cộng tác. Đặc biệt
là ngay những ngày đầu UBCBT đã nhận được sự đóng góp của một nữ lưu từ
Đức quốc, cô Huyền Thoại đã giúp cho UB thiết lập
ngay trang Facebook mang tên “Ủy Ban Chống Bắc Thuộc”, để việc trao đổi và
phát tán tài liệu được
dễ dàng hơn.
Thay mặt cho UBCBT chúng tôi xin chân thành
ghi nhận thiện chí đóng góp và những dặn dò của các bậc đàn anh, các thân hữu
gần xa. Tất cả đã là một khích lệ lớn cho chúng tôi. UBCBT
Vấn đề nào phải được coi
là khẩn thiết nhất đối với những người mà Lịch Sử đã giao phó cho trách nhiệm
nắm giữ vận mệnh Việt Nam?
Câu hỏi này thường được quanh quẩn trong đầu óc tôi, từ lúc
còn bé ngồi học Sử ký nước Việt trên ghế nhà trường, đến khi lớn lên và bị lôi
cuốn vào cơn lốc của thời cuộc. Câu trả lời thực không dễ dàng vì mỗi nước lại
có những đòi hỏi riêng biệt về nhiều mặt: an ninh, giáo dục, kinh tế, môi
trường…
Tuy không bao giờ có tham vọng tìm được lời giải đáp thích
đáng nhất, tôi vẫn nghĩ rằng đối với người giữ trách nhiệm ở Việt Nam, vấn đề
khẩn thiết nhất về mặt nội trị là làm sao ngăn ngừa được,nếu cần thì loại trừ
hoặc ít nhất cũng giảm thiểu đến mức tối đa, những mối chia rẽ bắt nguồn từ
những khác biệt địa phương, tín ngưỡng, giai cấp xã hội, chủ trương chính
trị…có khả năng làm rạn nứt khối cộng đồng dân tộc.
Về mặt ngoại giao, vấn đề khẩn thiết nhất - mặc dù đã xuất
hiện ngay từ thuở Việt Nam lập quốc – là mối đe dọa tạo nên bởi sự hiện diện, ở
biên giới phía Bắc, của một quốc gia vừa lớn, vừa mạnh, vừa đã có sẵn nhiều
cuộc tranh chấp chưa thanh toán xong với Việt Nam trong quá khứ, vừa vẫn biểu
lộ một xu hướng bành trướng ảnh hưởng thế lực của mình trong toàn vùng. Vấn đề
này, tạm gọi tắt là “Mối lo phương Bắc”, sẽ là chủ đề của bài này.
Câu nói rõ ngay rằng đây không phải là một lời kêu gọi đào
sâu hận thù giữa hai lân bang, càng không phải là truyền đơn cổ võ thái độ bài
ngoại, bài Hoa. Chúng ta không có ý đi theo con đường lạc hậu và tiêu cực ấy,
ngõ hầu bảo vệ đất nước và duy trì hòa bình.
Mối lo phương Bắc: một đe
dọa tưởng tượng hay có thực?
Đã từng có những người, không rõ vì lạc quan hay quá tin
tưởng ở sức mạnh vạn năng của ý thức hệ cho rằng mối lo phương Bắc là một ảo
giác hơn là một hiện thực, một ám ảnh, di sản của thời Bắc thuộc hơn ngàn năm,
vẫn còn day dứt trong ký ức cộng đồng của dân tộc mình, nhưng thực ra không có
thực chất nữa. Tôi còn nhớ có lần tại bàn hội đàm ở Paris hồi cuối thập niên
60, khi chúng tôi nhắc tới những cuộc xâm lược tàn bạo, đã diễn ra rất nhiều
năm trong thời Bắc thuộc đã khiến cho tổ tiên chúng ta có cơ hội lập những
chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng, trên ải Chi Lăng, trên gò Đống Đa…một
vị đại biểu thuộc phái đoàn Hà Nội đã phản bác là ta không có quyền qui tội cho
Trung Quốc những điều sai trái gây ra bởi những triều đại phong kiến không phải
Hán tộc.
Lời biện bạch này thoạt nghe có vẻ khéo léo, nhất là khi kín
đáo nhắc đến gốc gác Mông Cổ của Nguyên triều hay gốc gác Mãn Châu của Thanh
triều, nhưng xét kỹ chỉ là lời ngụy biện không giá trị. Quả vậy, những cuộc xâm
lăng từ Trung Quốc hướng về Việt Nam đã thực sự xảy ra ở bất cứ thời đại nào,
thượng cổ hay hiện đại và do bất cứ chính quyền nào, phong kiến hay vô sản. Chỉ
cần nhắc lại một vài sự kiện đã diễn ra trong thời đại chúng ta: năm 1979 khi
Trung quốc tiến quân qua biên giới tàn phá sáu tỉnh miền Bắc Việt Nam, chính
quyền Bắc Kinh do đảng cộng sản lãnh đạo dưới sự điều khiển của Đặng Tiểu Bình;
ngày 8-1-2005 khi pháo thuyền Trung cộng bằn chết 6 ngư phủ Việt Nam, gây
thương tích và cầm tù nhiều ngư phủ khác trong vịnh Bắc Việt chính quyền Bắc
Kinh vẫn do đảng CS lãnh đạo bởi Hồ Cẩm Đào. Những sự kiện ấy chứng minh mối lo
phương Bắc không phải là đặc trưng của một triều đại, cũng không tùy thuộc vào
nguồn gốc hay xu hướng chính trị của người cầm quyền. Mối lo phương Bắc rõ ràng
bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, lịch sử nhất định. Lòng người dù yêu hay
ghét, tốt hay xấu cũng chẳng thể thay đổi được những hậu quả của hoàn cảnh này.
Thực tại địa lý đáng để ý đầu tiên là tầm cỡ quá lớn, so
sánh với Việt Nam, của nước láng giềng Bắc phương, về diện tích cũng như về
nhân số, về lực lượng quân sự cũng như về khả năng kinh tế, về ảnh hưởng trên
quốc tế cũng như về hào quang trong văn học. Tầm cỡ lớn lao ấy dễ dàng đưa tới
thái độ bá quyền. Thái độ ấy được biểu hiện lộ liễu hay kín đáo tùy theo tập
tục của mỗi nước lớn, nhưng chắc chắn không bao giờ vắng bóng hẳn. Một nước lớn
thô bạo tham lam sẽ tìm cách chiếm đoạt tất cả hay một phần lãnh thổ, tài
nguyên của các nước nhỏ láng giềng. Dù không muốn – hay không thể -
tham lam vơ vét đến mức ấy, nước lớn láng giềng cũng sẽ tìm cách ảnh hưởng, chi
phối chính sách ngoại giao nội trị của nước nhỏ, sao cho những lợi ích an ninh
hay kinh tế của mình khỏi bị đe dọa hoặc bị thiệt thòi bởi những chính sách
này. Vì thế, tình trạng đối lập đương đầu giữa hai nước láng giềng lớn nhỏ khác
nhau khó tránh được. Một thực tại địa lý đáng kể khác là những con sông quan
trọng nhất của Việt Nam như sông Cửu Long hay sông Hồng Hà, đều bắt nguồn hoặc
chảy qua lãnh thổ Trung Quốc do đó nước này có khả năng làm khó dễ và gây áp
lực đối với nước láng giềng nhỏ của mình. Tại một hội nghị về sông ngòi vừa họp
tại Côn Minh hồi đầu tháng 7 năm 2005, nhiều đại biểu từ những nước Đông Nam Á
đã vạch trần những hậu quả tai hại của việc Trung Quốc cho xây dựng bừa bãi
những đập thủy điện trên những dòng sông sẽ chảy qua các nước ấy, về các phương
diện môi trường, lưu lượng, thủy sản, thủy tải.
Sau hết, nhưng không phải là ít đáng chú ý hơn hết, là tình
trạng biên giới giữa hai nước Việt Hoa, trên bộ cũng như dưới nước không được
ấn định rõ ràng. Sự trạng đáng tiếc này chứa đựng nguy cơ tranh chấp nghiêm
trọng giữa đôi bên, đã có từ thời Pháp ký hiệp ước Thiên Tân với triều đình Mãn
Thanh, ngày 6-6-1885. Nhằm sửa chữa điểm khiếm khuyết ấy, đặc ủy Pháp, ông
Ernest Constans, đã ký tại Bắc Kinh với đại diện Thanh triều ngày 26-6-1887 một
thỏa ước nhằm minh định biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ. Thỏa ước này thường
được gọi là thỏa ước Constans.
Gần đây hơn, nhà cầm quyền Hà Nội đã ký kết với Trung Quốc
hai bản hiệp ước nhằm giải quyết vấn đề biên giới: bản hiệp ước về biên giới
đường bộ ngày 30-12-1999 và bản hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ ngày 25-12-2000.
Tuy nhiên hai thỏa ước này đã được thương thuyết và ký kết
một cách âm thầm, không được thảo luận rộng rãi tại Quốc Hội và trước công
luận, đã bị nhiều người Việt trong nước và ngoài nước chỉ trích là chứa đựng
nhiều nhượng bộ cho bên Trung Quốc, so với những chứng tích lịch sử, với thỏa
ước Constans, với các nguyên tắc công pháp, với Luật Biển Liên Hiệp Quốc.
Nhớ lại những thực tại địa lý đáng ngại ấy, chúng ta không
ngạc nhiên khi thấy rằng lịch sử bang giao Trung Quốc - Việt Nam đã ghi nhận
nhiều cuộc tranh chấp xung đột. Phản ảnh cuộc tranh đấu dai dẳng và những chiến
công hiển hách của Việt Nam là những thiên hùng ca xuất sắc nói lên ý chí tồn
tại như một nước độc lập của dân tộc Việt Nam, từ bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà Nam
Đế Cư…” của Lý Thường Kiệt, qua bài “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo đến bài
“Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
Những thực tại địa lý lịch sử ấy chứng minh rằng mối lo
phương Bắc tương ứng với một đe dọa rất hiện thực chứ không hoang tưởng. Nhận
xét này không bao hàm một khuynh hướng bài ngoại, bài Hoa nào cả. Một người
Việt có thể yêu thơ Đường, mê truyện chưởng, thích phim Trung Hoa…nhưng vẫn
không thể quên sự thật này.
Mối lo phương Bắc có tính
cách khẩn trương không?
Cũng có người cho rằng mối lo phương Bắc tuy có thực nhưng
đã ở với chúng ta từ hàng ngàn năm rồi, không làm gì còn có tính cách cấp bách
nữa, vì vậy Việt Nam có thể cứ dần dà thong thả lo liệu, nay hãy để ý giải
quyết trước những vấn đề khẩn cấp, như tham gia Tổ Chức Thương Mại Thế Giới,
ngăn ngừa dịch cúm gà vịt, bài trừ tệ nạn tham nhũng đang hoành hành….Nghĩ như
vậy là không nhớ rằng chấp chính phải toan tính trước cho kịp thời, do đó phải
chăm chú theo dõi các dấu hiệu và diễn biến bên ngoài ngõ hầu phản ứng không
trễ. Nếu ta quan sát biến chuyển của tình hình Trung Quốc hiện thời, ta thấy
gì?
Đối với một quốc gia thường trải qua những chu kỳ trị rồi
loạn, loạn rồi trị, hợp tan tan hợp như Trung Quốc, nước này hiện đang ở trong
giai đoạn ổn định. Quá trình thay thế cấp lãnh đạo đã diễn ra từ năm 2002 đến
nay mà không xảy ra những vụ xung đột, đảo chính như thường lệ; cặp Hồ Cẩm Đào
– Ôn Gia Bảo đã củng cố được quyền hành của họ mà không vấp phải những thách
thức hay chống đối nào đáng kể. Những thời kỳ ổn định như vậy thường là lúc
Trung Quốc ráo riết hoạt động trên mặt quốc ngoại để bành trướng bá quyền. Năm
2005 đã đem lại nhiều dấu hiệu đáng ngại về phương diện này. Đầu năm 2005, Bắc
Kinh đe dọa làm mạnh đối với Đài Loan và cho biểu quyết đạo luật chống phân ly,
đe dọa dùng võ lực nếu đảo quốc này tuyên bố độc lập. Tháng tư năm 2005, mượn cớ
Nhật Bản cho xuất bản quyển sách sử học miệt thị Trung Hoa, Bắc Kinh phát động
một loạt biểu tình bạo động đánh phá nhiều cơ quan lãnh sự và cơ cở thương mại
của Nhật trên đất Tầu. Ngày 4 tháng 6 năm 2005, khi ghé Tân Gia Ba, bộ trưởng
quốc phòng Mỹ Rumsfeld tiết lộ là tổng số kinh phí quốc phòng của Trung Quốc
cao hơn số chính thức công bố rất nhiều. Ông băn khoăn tự hỏi vì sao Trung Quốc
lại bỏ ra nhiều tiền để mua sắm vũ khí đến mức ấy trong khi không có nước nào
trên thế giới đe dọa Trung Hoa. Hồi đầu tháng này, Hồ Cẩm Đào ghé thăm Putin ở
Mạc Tư Khoa để hâm nong thế liên minh quân sự Nga – Hoa đã tắt ngúm từ lâu,
đồng thời để yêu cầu Nga đặt ống dẫn dầu xuyên Tây Bá Lợi Á (Siberia) đến cửa
ngõ Trung Quốc để sẵn sàng cung cấp nhiên liệu cho nước mình.
Sau hết cách đây không lâu Bắc Kinh vừa thông báo cho các
nước hữu quan ý định của Trung Quốc mau chóng tiến hành những cuộc thăm dò tìm
kiếm mỏ dầu khí trong vùng biển bao quanh quần đảo Trường Sa trong biển Đông.
Tất cả những đám mây đen chồng chất ấy tỏ rõ mối lo phương
Bắc không chỉ là một vấn đề thường xuyên, cổ điển có thể tạm xếp lại trong ngăn
kéo, mà trái lại, có tính cách thời sự, nóng bỏng, đòi hỏi Việt Nam phải ấn
định và tiến hành mau chóng những phương sách thích hợp để đối phó.
Cần làm gì để đối phó?
Đứng trước nguy cơ ngày càng hiển hiện ấy, dĩ nhiên ta không
thể như con đà điểu, bưng tai bịt mắt để khỏi thấy sự thực, cũng chẳng thể
huyênh hoang tuyên bố sẽ đập tan quân thù dễ dàng. Những lời phát biểu ấy chỉ
có lợi ích giúp cho hả giận, bớt lo, chứ chẳng có công dụng thực tiễn nào.
Giải pháp liên minh với một hay nhiều ngoại bang lớn mạnh
khác có vẻ là một ý kiến đúng đắn và khả thi. Nhân chuyến viếng thăm Hoa Thịnh
Đốn của thủ tướng chính quyền Hà Nội hồi tháng sáu năm 2005, có người đã gợi
lại ý kiến ấy. Tuy nhiên ta phải nhận thức là ý kiến này đầy bất trắc rủi ro.
Quả vậy, quyền lợi của hai quốc gia không phải bao giờ cũng đồng nhất với nhau.
Khi quyền lợi, ưu tiên đã khác biệt thì liên minh cũng sẽ lỏng lẻo, tan
rã.
Xét cho cùng, giải pháp duy nhất vừa khả thi vừa thích đáng
là tạo lập mau chóng khối đại đoàn kết dân tộc, thông qua sự bãi bỏ độc quyền
độc đảng, thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên thực sự, long trọng thừa nhận và
nghiêm chỉnh tôn trọng mọi quyền tự do cơ bản cho toàn thể nhân dân, chấm dứt
mọi phân biệt đối xử căn cứ trên tín ngưỡng, địa phương, giai cấp xã hội. định
hướng chính trị ngõ hầu tập họp được tối đa dân Việt Nam chung quanh chính
nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, hạnh phúc dân tộc chứ không
vì một ý thức hệ hay chủ nghĩa ngoại lai nào.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy Trung Quốc rất thực tế: Trước
lực lượng biểu hiện bởi khối đoàn kết dân tộc của chúng ta, họ sẽ suy nghĩ
nhiều lần trước khi lao mình vào một cuộc xâm lăng phiêu lưu mà giá phải trả có
thể lớn lao hơn nhiều so với kết quả thu hoạch được. Trong quá khứ, sau khi
Thoát Hoan trốn chạy về Tầu hay sau khi Tôn Sĩ Nghị lội sông tháo lui, khởi
thủy vua Tầu đã dự định cất quân sang xâm lược Việt Nam lần nữa, nhưng sau lại
phải
tháo lui
và nhận lời cầu hòa vì sợ phải đụng độ lần nữa với khối đoàn kết keo sơn của
dân tộc Việt Nam.
09-07-2005
Vương Văn Bắc
Luật sư Vương văn Bắc sinh năm 1927 tại Bắc Ninh, học trò
trường Bưởi rồi Đại học Luật khoa Hà Nội. Năm1954,di cư vào Nam. Năm 1964 ông
làm Giáo sư giảng dạy môn chính trị học tại Viện Đại học Đà Lạt và Học viện
Quốc gia Hành chánh (1964-1974). Ông hành nghề luật sư tại tòa Thượng thẩm Sài
Gòn, và có chân trong phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tại Hòa đàm Paris. Ông từng
được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục rồi Đại sứ Việt Nam Cộng hòa
tại Anh năm 1972. Năm 1973 ông kế nhiệm ông Trần Văn Lắm làm Tổng trưởng Ngoại
giao của Việt Nam, đến đầu năm 1974 khi Trung Cộng mở cuộc xâm chiếm ở Quần
đảo Hoàng Sa, ông xúc tiến soạn văn kiện Tuyên cáo chủ quyền của VNCH năm 1974 trên
hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa”, “Tuyên cáo của Bộ Ngoại Giao VNCH về việc Trung
Cộng xâm lược đảo Hoàng Sa năm 1974”, và “Bạch thư của VNCH” đầu năm 1975 lên
án vụ chiếm đoạt trước diễn đàn quốc tế. Các phái đoàn ngoại giao ở Sài Gòn
được triệu đến Bộ để nghe ông xác định chủ quyền của Việt Nam trên Quần đảo
Hoàng Sa như sau:
“Trước những sự vi phạm thô bạo đó, Chính phủ và Nhân dân
Việt Nam Cộng Hòa rất công phẫn và quyết không dung thứ. Sự kiện các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là những phần tử bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa là một sự kiện hiển nhiên và không chối cãi được, căn cứ trên những dữ kiện
địa lý, lịch sử và pháp lý quốc
tế... ”
Khi chiến cuộc gia tăng, miền Nam với tình trạng sút giảm
viện trợ từ đồng minh Hoa Kỳ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử ông sang Á Rập
Saud tìm cách vay quốc vương Á Rập một ngân khoản để trang trải chiến cuộc. Sự
việc không thành. Ông liền bay sang Washington, DC vận động vay từ Hoa Kỳ nhưng
cuối cùng cũng không đạt được mục đích. Ông từ chức ngày 25 tháng 4, 1975 và
sau khi mất nước, ông tỵ nạn tại Pháp. Năm 1986 trong buổi hội thảo về Chính
nghĩa của Thuyền Nhân VN ông đã nói ‘nếu Hiệp định Paris ngày 27-01-1973 được
thi hành nghiêm chỉnh thì đã tránh được thảm họa thuyền nhân’.
Ông mất ở Paris ngày 20 tháng 6 năm 2011.
LỜI NGƯỜI XƯA
Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.
Trần Bình Trọng danh tướng đời nhà Trần.
DÂN TỘC CHÚNG TA ĐÔI KHI HÙNG MẠNH, ĐÔI KHI YẾU KÉM NHƯNG
CHƯA BAO GIỜ CHÚNG TA THIẾU NHỮNG ANH HÙNG.
Bình Định Vương Lê Lợi.
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching