On Sunday, 23 February 2014 7:29 PM, nguoiphuongnam <>
wrote:
From: Huu Dinh Nguyen
Tôi về Việt Nam đã nghe và thấy gì ở miền Nam
sau 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Lời người viết: Đây không phải
là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học
của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi
lại môt cách trung thực.
Tôi
thấy bộ mặt Sài gòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Đổi mới
với những nhà hàng “ vĩ đại “ trên các tuyến đường du lịch.
Với những trung tâm
“thư giản” sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực
kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hà nội. Với những trường Trung học tư
thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ-
học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ – 1,000 – 1,500 US$ /tháng. (Giai cấp
nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )
Tôi
cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử “đỏ”, các nhà
giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy
túi. Họ đến đây để “thư giản”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi
vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô
la Mỹ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung
học trường công không đủ để trả một chai rượu XO, vụ cá độ hàng triệu đô la đã
bị phanh phui là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải
tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi… “ lắc” suốt
đêm.
Để
vài hôm sau – đâu lại cũng vào đó…
Tôi
cũng thấy Sài gòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc
lên vô trật tự – ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt, nhà cửa mặt
tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc
tiền. Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây
cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên, lấn chiếm
ngang ngược đất công hoặc lề đường…
Tôi
thấy Sài gòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh
tai nhức óc và 5.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi
???
Và
hệ thống cống rảnh lạc hậu, mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng
tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu không đáp ứng nổi nhu cầu thải
rác của 10.000.000 dân nhung nhúc như kiến. Sài gòn đầy dẫy những hàng ngoại do
công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ, hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.
Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận,
không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản
chừng 1,200 đô la, chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia –
bia nội, bia ngoại – có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt
ở Sài gòn.
Đảng viên, cán bộ – giai cấp thống trị -”Nhậu”. Già nhậu, trẻ nhậu…
con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu
bây giờ là giai cấp nắm quyền thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê,
bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A,
trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút – thậm chí con nít 9, 10 tuổi
ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.
Các hảng bia và thuốc lá
ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục
cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng, nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước
da mông mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê mới lên Tỉnh.
Tôi còn thấy Sài gòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược
của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như
chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa.
Chiếm
đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê.
Chưa thỏa mãn – ban
đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu
trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là
dân thường.
Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi
ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông
nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ.
Còn
nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp
Sai gòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là
nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu
nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) – bên có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây
thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị
giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỹ kim – ngon ơ !
Tương tự như vậy – ở góc đường
Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư
Phạm trước 75 – phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền.
Ngang ngược
và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường
Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân
chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc
bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn
bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày.
Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên,
lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi
xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi
là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công
an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : “Xã hội Việt Nam ngày
nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng.
Không thể nào
chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao?
“ (Nhật ký “Rồng Rắn” của Trần Độ). Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise
xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới
vào Sài gòn – đã biến mất.
Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của
những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự
do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng
bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay
trên đường phố.
Tôi
còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao
túi ny lông, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… Những bà cụ già,
những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay,
cụt chân, lê lết trên một miếng ván gổ … đi bán vé số (một cách ăn xin trá
hình).
Bộ
mặt Sài gòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời
thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim
cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt
thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền, trang trí cây cảnh như
một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn
nhơ trên đường phố – Nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt Nam bây
giờ tiến bộ quá”.
Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ
không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục,
mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt
Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng: 800 US$ năm 2011 (Hà Nội bốc
lên 1,000 US$, chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh.
So với các nước láng giềng:
Thái Lan: 3.500 US$ – Phi luật Tân: 2.000 US$ – Nam Dương: 1.160.US$. Tân gia Ba
30.000 US$. (The Economist World, năm 2011
– p. 158, 176, 238) – Việt Nam còn
lẹt đẹt đàng sau rất xa.
Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu
hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu
lớn, những biệt thự lộng lẫy kia?
– Thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán
bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn
quê – Giai cấp giàu có bây giờ là ai ? Giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của
cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ???
Hiện
tượng người Bắc XHCN chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mại quan trọng ở Sài gòn,
khống chế mọi lãnh vực trọng yếu ở miền Nam
Cho
dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” – cho dù che giấu,
lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc
theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn
ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài gòn. Làm sao nói khác
được khi đi một vòng quanh Sài gòn và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu
buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản
– Từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong cũng toàn là người của xã hội chủ
nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài,
Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng
Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước.
Hiện nay, một số đã đổi
bảng hiệu hoặc xây cât lại nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở
khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những
tiệm buôn bán đồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ.
Tuy
không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn
sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sài gòn thì khám phá ra được chủ nhân là
người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN
bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra).
Các cô
chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ
– dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự
với khách ngoại quốc.
Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc
– Trừ một số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào
đánh chiếm miền Nam – Thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả.
Hệ thống quyền
lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận
lỵ, thị trấn, làng xã gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ.
Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển
hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân
cũng là người Bắc XHCN.
Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông,
từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do
người miền Bắc XHCN nắm giữ. Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy.
Còn những
vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc
đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị
đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được
từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản
– toàn bộ tài sản nầy từ Sài gòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem
đi đâu? – Không ai biết.
Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào
công quỹ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những
mỹ từ đẹp đẻ.
Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau.
Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn
sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn.
Ông
nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không
hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy
– vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi
trước.
Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà
cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những
trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện
pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN. Không chỉ có những người
thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân
thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh
sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ
sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô
sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua
gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra
ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua”
nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền
ở Sài gòn. Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng
lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm
chiếm miền Nam.
Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó
chối cãi được – là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sài
gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều
chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản
đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty
có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô
la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang
du học Mỹ là trường hợp điển hình).
Như
vậy hành vi nầy gọi là gì?
Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối
diện với luơng tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi mình đi. Đến thời “mở cửa”
– cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai
thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch
ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các
công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất
đại công tác.
Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc
tế – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác
nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp
xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua”
Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện
đóng cửa không sử dụng được. Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm
chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu
thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ.
Cán bộ lớn đã
trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt
lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ,
thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân
chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.
Nhà
văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”:
– “Năm Bắc
thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.
– Năm Bắc thuộc thứ 6:
Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù
oán.
– Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương
thôi tập khóc cười. “ Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế
nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.
Bộ
mặt của thôn quê miền Nam
Có
nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và
nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam – những
làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện.
Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn
sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn
xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ,
VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế
bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ).
Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận
(Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ –
chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự
như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những
mái lá bạc màu.
Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều
nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào
thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.
Hai bên đường xe chạy
từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung – có một
sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen
chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã
biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa.
Không còn vẻ đẹp thiên
nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận
Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương. Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế
chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ
sài bằng những trụ cây tràm.
Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc
phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng trên một
dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn
đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá
Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động
khá mạnh.
Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người
ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và
chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa.
Hỏi
một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết
rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ
mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh
đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ biết hết, báo Tuổi
trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ
xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh
niên. Họ liều đó ông, biết đâu gặp may.
“Câu chuyện gái Việt
lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết. Tờ Tuổi trẻ – số ra ngày
mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “ Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số
phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui
mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con.
Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ
chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn
làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do
tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến
20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài gòn để dự tuyển.
Các chàng rể Hàn Quốc được quyền
soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái.Dich vụ môi giới
hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã
phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400
lượt cô gái hiện diện. Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn
dập gây náo loạn cả xóm”.
Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri
Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố
xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người
trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi
lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất
ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau
khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỷ các cô gái
nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn-
có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ.
Nhìn cách ăn mặc và nghe họ
nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới
chánh thức có giấy phép hành nghề. Song song với tổ chức chánh thức, còn có một
tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi
dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng
ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma
Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc
bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ.
Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che
chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần
– thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11,
Sàigòn. Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì
có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén
lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ
mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô
dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại.
(Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì
bán thẳng vào ổ điếm.
Biết
bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm
nhân loại. Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh
người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không
thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương,
những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn
không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở?
Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù
mịt? Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con
gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ
để đuợc giới thiệu.
Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan,
Đại Hàn?
Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra
vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt,
chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn
trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người
miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác.
Các cô gái
miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ –
có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con
gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho
cha mẹ.
Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những
người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ, thang giá trị bị đảo lộn
nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào
đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.
Nghèo
Là
nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và
Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế
nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau
32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH) ?
Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam –
thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH:
9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn
nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà
ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương
thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá. Đó là cái nghèo mà anh
Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên
cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt,
nghe tận nơi của người viết:
Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn
quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của
một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải
tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn
gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc…
Cái nghèo của một người đi mượn tiền,
muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất
nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán
bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát
chơi ngoài sân. Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. – Có.
Tôi
quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te
tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2011) tôi
thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi
còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch.
Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo! Đời cha nghèo! Đời
cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo –
không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo.
Nói
chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn
công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số
lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực.
Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : “Nông dân đã
nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn.
Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? “
Miền
Nam – 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Kinh
tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp
đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác
trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển
nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài
trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng
học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo công ăn việc làm, phát
triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không?
Hay là phát triển bằng
những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những
con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp
– nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du
lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược.
Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam
biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát
triển không?
Kết
luận
-
37 năm nhìn lại:
Người
ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài gòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ.
Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau.
“Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế
kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các
trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được
tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.
-
37 năm nhìn lại:
Người
ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt
Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng
kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm
2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF –
LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)
-
37 năm nhìn lại:
Mượn
lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể
cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và
những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế
độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu
cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi
trên xứ sở”
-
37 năm nhìn lại:
Miền
Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn
cả thời Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước
hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang
đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ
trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)
©
Trần Thế Phong
Ghi
chú: ĐCV đề tựa
Thứ Hai, ngày 24 tháng
2 năm 2014
TỘI ÁC DIỆT CHỦNG - PHẠM QUÝ NGỌ ĐÃ THỦ TIÊU, GIẾT CHẾT HẰNG NGHÌN NÔNG DÂN VÀ CỰU CHIẾN BINH TẠI THÁI BÌNH 1997.
Nguyễn Thuỳ Trang
Xứng đáng nhận Huân Chương Giết Dân Hạng Nhất
Theo những bài viết và cuộc phỏng vấn của Dương Thu Hương trước đây , cho biết vụ nổi dậy của NÔNG DÂN và CỰU CHIẾN BINH tại THÁI BÌNH vào năm 1997, sau đó đã xảy ra nhiều vụ thủ tiêu, mất xác mà Phạm Quý Ngọ chính là hung thủ.
Dưới đây là một số diễn biến nổi trội tại Thái Bình vào năm 1997, lúc Phạm Quý Ngọ còn mang hàm ĐẠi TÁ, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình.
Nhân dân các xã Quỳnh Hoa, Quỳnh Hội, Quỳnh Mỹ và Thái Thịnh đồng loạt nổi dậy. Chiều ngày 16/6/1997, khoảng 300 người dân xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ đã bắt giữ Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND xã và Phó ban tài chính xã. Tại xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ nhân dân bao vây xã, huyện, khiếu tố về việc UBND huyện Quỳnh Phụ không thực hiện quỹ đất 5%.
Tại xã Quỳnh Mỹ, chiều 10/5/1997, khoảng 3.000 người đã tràn vào Viện kiểm sát nhân dân huyện, một số người đã đập phá phòng làm việc, thu và xé tài liệu của Viện kiểm sát nhân dân, hàng trăm người của xã Quỳnh Hồng cùng số dân xã Quỳnh Mỹ kéo đến bao vây trụ sở công an huyện. Trong suốt 6 giờ đồng hồ (từ 19 giờ ngày 10/5 đến 1 giờ sáng ngày 11/5) khoảng 2.000 người tụ tập trước trụ sở công an huyện, xô đổ cổng, dậu của Công an huyện và trường Đảng huyện; dùng gạch đá tấn công trụ sở cũng như ném đá các cán bộ, công an.
Người dân đã dùng nhiều vật cản chắn đường ô tô, ngăn không cho lực lượng công an tỉnh và công an các huyện tăng cường; đồng thời tổ chức săn lùng, đánh đuổi bọn công an ác ôn. Nhân dân đã đánh trọng thương 11 công an cũng như phá nát nhiều tài sản của đồn công an, trong đó có 3 xe chữa cháy, 1 xe cứu thương, 1 xe chở quân, vỡ nhiều lá chắn, hỏng toàn bộ cánh cửa nhà 2 tầng, hệ thống chiếu sáng và nhiều máy móc thông tin liên lạc.
Ngày 25/6/1997, 60 người dân xã Thái Thịnh lên UBND tỉnh kiến nghị giải quyết thanh quyết toán các công trình xây dựng của xã và tố cáo Chủ tịch xã vi phạm luật đất đai, tham nhũng. 14h ngày 26/6/1997, trong lúc Đảng bộ xã đang họp, hơn 200 người dân kéo đến bao vây trụ sở, yêu cầu xã phải thực hiện ngay công văn số 279.
5h chiều cùng ngày, Chủ tịch huyện cùng đoàn cán bộ huyện Thái Thụy trốn về xã Thái Thịnh lánh nạn. Nhân dân biết được thông tin đã huy động hàng nghìn người tập tại trụ sở UBND xã. Thấy mặt chủ tịch Huyện và đoàn cán bộ, nhân dân nhào lên vây bắt. Lực lượng công an tìm cách đưa được Chủ tịch huyện ra ngoài. Chủ tịch xã và Trưởng công an huyện bị nhân dân đánh trọng thương. 6 cán bộ khác của xã, trong đó có Bí thư Đảng ủy và 3 an ninh viên bị đánh tơi tả.
Toàn bộ bàn ghế, cánh cửa, tủ đựng tài liệu, tăng âm, loa đài của xã và HTX bị phá nát.
Sau các cuộc nổi dậy nầy, nhà nước đã cho cán bộ xuống xoa dịu nhân dân các xã, huyện thuộc tỉnh Thái Bình. Sau khi nhân dân tin vào lời của Đảng thì ngày 3/7/1997, Pham Quí Ngọ đưa công an xuống bắt giam 5 cựu chiến binh mà Ngọ cho là những người cầm đầu là Vũ Văn Kiện, Vũ Văn Tuấn, Phạm Văn Vịnh, Ngô Thị Duyên, Phạm Văn Khuynh.
Những Nông Dân bị bắt công khai gồm có 36 người bị đưa ra tòa án nhân dân xử tội "gây rối trật tự công cộng, cố ý hủy hoại tài sản XHCN, tài sản công dân, cố ý gây thương tích, xảy ra đêm 26/6/1997 tại Thái Thịnh." Mỗi người dân bị xử trên 10 năm tù sau đó.
Trong cuộc hành quân THỦ TIÊU khác, Đại Tá Công An Phạm Quý Ngọ huy động công an vào giữa đêm, gõ cửa từng nhà người dân mà chúng nó đã lập danh sách đen. Hằng nghìn người đã bị Phạm Quý Ngọ bắt giữ, khủng bố không đưa ra xét xử. Một số lớn người dân đã bị THỦ TIÊU, MẤT XÁC.
Tội ác của Phạm Quý Ngọ là tội ác tày trời, nhân dân không thể quên.
Xứng đáng nhận Huân Chương Giết Dân Hạng Nhất
Theo những bài viết và cuộc phỏng vấn của Dương Thu Hương trước đây , cho biết vụ nổi dậy của NÔNG DÂN và CỰU CHIẾN BINH tại THÁI BÌNH vào năm 1997, sau đó đã xảy ra nhiều vụ thủ tiêu, mất xác mà Phạm Quý Ngọ chính là hung thủ.
Dưới đây là một số diễn biến nổi trội tại Thái Bình vào năm 1997, lúc Phạm Quý Ngọ còn mang hàm ĐẠi TÁ, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình.
Nhân dân các xã Quỳnh Hoa, Quỳnh Hội, Quỳnh Mỹ và Thái Thịnh đồng loạt nổi dậy. Chiều ngày 16/6/1997, khoảng 300 người dân xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ đã bắt giữ Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND xã và Phó ban tài chính xã. Tại xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ nhân dân bao vây xã, huyện, khiếu tố về việc UBND huyện Quỳnh Phụ không thực hiện quỹ đất 5%.
Tại xã Quỳnh Mỹ, chiều 10/5/1997, khoảng 3.000 người đã tràn vào Viện kiểm sát nhân dân huyện, một số người đã đập phá phòng làm việc, thu và xé tài liệu của Viện kiểm sát nhân dân, hàng trăm người của xã Quỳnh Hồng cùng số dân xã Quỳnh Mỹ kéo đến bao vây trụ sở công an huyện. Trong suốt 6 giờ đồng hồ (từ 19 giờ ngày 10/5 đến 1 giờ sáng ngày 11/5) khoảng 2.000 người tụ tập trước trụ sở công an huyện, xô đổ cổng, dậu của Công an huyện và trường Đảng huyện; dùng gạch đá tấn công trụ sở cũng như ném đá các cán bộ, công an.
Người dân đã dùng nhiều vật cản chắn đường ô tô, ngăn không cho lực lượng công an tỉnh và công an các huyện tăng cường; đồng thời tổ chức săn lùng, đánh đuổi bọn công an ác ôn. Nhân dân đã đánh trọng thương 11 công an cũng như phá nát nhiều tài sản của đồn công an, trong đó có 3 xe chữa cháy, 1 xe cứu thương, 1 xe chở quân, vỡ nhiều lá chắn, hỏng toàn bộ cánh cửa nhà 2 tầng, hệ thống chiếu sáng và nhiều máy móc thông tin liên lạc.
Ngày 25/6/1997, 60 người dân xã Thái Thịnh lên UBND tỉnh kiến nghị giải quyết thanh quyết toán các công trình xây dựng của xã và tố cáo Chủ tịch xã vi phạm luật đất đai, tham nhũng. 14h ngày 26/6/1997, trong lúc Đảng bộ xã đang họp, hơn 200 người dân kéo đến bao vây trụ sở, yêu cầu xã phải thực hiện ngay công văn số 279.
5h chiều cùng ngày, Chủ tịch huyện cùng đoàn cán bộ huyện Thái Thụy trốn về xã Thái Thịnh lánh nạn. Nhân dân biết được thông tin đã huy động hàng nghìn người tập tại trụ sở UBND xã. Thấy mặt chủ tịch Huyện và đoàn cán bộ, nhân dân nhào lên vây bắt. Lực lượng công an tìm cách đưa được Chủ tịch huyện ra ngoài. Chủ tịch xã và Trưởng công an huyện bị nhân dân đánh trọng thương. 6 cán bộ khác của xã, trong đó có Bí thư Đảng ủy và 3 an ninh viên bị đánh tơi tả.
Toàn bộ bàn ghế, cánh cửa, tủ đựng tài liệu, tăng âm, loa đài của xã và HTX bị phá nát.
Sau các cuộc nổi dậy nầy, nhà nước đã cho cán bộ xuống xoa dịu nhân dân các xã, huyện thuộc tỉnh Thái Bình. Sau khi nhân dân tin vào lời của Đảng thì ngày 3/7/1997, Pham Quí Ngọ đưa công an xuống bắt giam 5 cựu chiến binh mà Ngọ cho là những người cầm đầu là Vũ Văn Kiện, Vũ Văn Tuấn, Phạm Văn Vịnh, Ngô Thị Duyên, Phạm Văn Khuynh.
Những Nông Dân bị bắt công khai gồm có 36 người bị đưa ra tòa án nhân dân xử tội "gây rối trật tự công cộng, cố ý hủy hoại tài sản XHCN, tài sản công dân, cố ý gây thương tích, xảy ra đêm 26/6/1997 tại Thái Thịnh." Mỗi người dân bị xử trên 10 năm tù sau đó.
Trong cuộc hành quân THỦ TIÊU khác, Đại Tá Công An Phạm Quý Ngọ huy động công an vào giữa đêm, gõ cửa từng nhà người dân mà chúng nó đã lập danh sách đen. Hằng nghìn người đã bị Phạm Quý Ngọ bắt giữ, khủng bố không đưa ra xét xử. Một số lớn người dân đã bị THỦ TIÊU, MẤT XÁC.
Tội ác của Phạm Quý Ngọ là tội ác tày trời, nhân dân không thể quên.
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching