On Thursday, 16 January 2014 2:00 PM, anh truong <> wrote:
TÀU NGẦM NGUYÊN TỬ MỸ NỖI LO CỦA TRUNG CỘNG
tka23 post
Mỹ đã tăng cường bố trí lực lượng quân sự nhằm vào Trung
cộng , trong đó tàu ngầm hạt nhân tấn công có thể xóa sổ nhiều mục tiêu quan
trọng của Trung cộng .
Từ năm 2013 đến nay, Quân đội Mỹ tiếp tục tăng
cường lực lượng quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương,
trong đó có tàu ngầm hạt nhân tấn công
Charlotte ở Guam, 12 máy bay vận tải mới Osprey ở Okinawa, điều
đong tàu chiến mới nhất đến Biển Đông thực hiện nhiệm vụ trinh sát toàn diện.
Chuyên gia quân sự Trung cộng
Đỗ Văn Long cho rằng, tàu ngầm hạt nhân tấn công
Mỹ bố trí ở Guam của Quân đội Mỹ có khả năng tấn công mạnh, có thể
trực tiếp đe dọa các mục tiêu quan trọng của Trung cộng ở khu vực
duyên hải và đất liền, thậm chí đe dọa HKMH.
Ở hướng Tây Thái Bình Dương, trong năm 2013,
Quân đội Mỹ tăng cường lực lượng quân sự, tàu ngầm hạt nhân tấn công
Charlotte ở Guam, 12 máy bay vận tải cánh xoay MV-22 Osprey ở
Okinawa, máy bay tuần tra săn ngầm mới nhất P-8 Poseidon ở căn cứ quân sự
Kadena, Nhật Bản.
Đỗ Văn Long cho rằng, một loạt bố trí của
Quân đội Mỹ đều chú trọng hơn ở chiến trường, trong đó tàu ngầm hạt nhân ít
nhất có thể tạo được khả năng phá hủy trên 3 phương diện:
Một là tàu ngầm hạt nhân hỏa tiển
đạn đạo. Hiện nay, Mỹ rất quan tâm đến lực lượng hạt nhân dưới biển của
Trung cộng , hỏa tiển đạn đạo trang bị cho tàu ngầm mang tên Cự
Lang,
tàu ngầm hạt nhân chiến lược dòng 09D đều được
cho là những mục tiêu quan trọng hàng đầu săn giết của tàu ngầm tấn công bố trí
ở khu vực này.
Nếu có thể xóa sổ trước những mục tiêu này ở
dưới biển, có nghĩa là khả năng đe dọa hạt nhân chiến lược của chúng đối
với lãnh thổ Mỹ sẽ giảm đến mức tối thiểu.
Hai là xoá sổ HKMH Trung cộng . Do tàu ngầm hạt nhân tấn công có khả năng chống hạm
rất mạnh, đồng thời tính năng chạy êm dưới biển đặc biệt tốt, thường rất khó bị
phát giác trong thời gian ngắn và phạm vi lớn. Dựa vào khả năng tấn
công dưới biển , tấn công đối với hạm đội HKMH cỡ lớn trên mặt biển,
có thể giành được ưu thế .
Ba là diệt các mục tiêu quân sự chiến lược quan trọng
ở gần biển. Bởi vì, ngoài khả năng săn ngầm, chống hạm của tàu ngầm thông
thường, tàu ngầm hạt nhân tấn công còn có khả năng tấn công đối đất mạnh, trang
bị hỏa tiển Tomahawk có thể tạo ra mối đe dọa to lớn đối với các mục
tiêu bên trong đất liền .
Đỗ Văn Long cho rằng, hải quân Mỹ nếu trực
tiếp bố trí loại tàu ngầm tấn công này ở hoa đông Trung
công , có nghĩa là những mục tiêu quan trọng ở khu vực duyên hải và
căn cứ trong đất liền của Trung công hiện nay đều có thể bị tấn công
dễ dàng.
TỔNG HỢP
Tuesday,
January 14, 2014
Ý nghĩa của Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông
Nguyễn Hưng Quốc (VOA) -
Trong đời sống chính trị quốc gia cũng như quốc tế, thỉnh thoảng nổi lên một số
điểm nóng, nơi tập trung các mâu thuẫn chính, có thể dẫn đến xung đột và có ảnh
hưởng sâu sắc và nghiêm trọng đến vận mệnh của một đất nước cũng như tương quan
lực lượng trong một khu vực hoặc trên cả thế giới. Với Việt Nam, trong hơn một
thập niên vừa qua, điểm nóng ấy chính là Hoàng Sa và Trường Sa, hay nói gọn
hơn, là Biển Đông theo cách gọi của người Việt Nam. Nó trở thành một thách thức
nghiêm trọng đối với nhiều người và nhiều giới khác nhau.
Thứ nhất, vấn đề Biển Đông là một thách thức lớn, nếu không muốn nói là lớn nhất, đối với chính quyền Việt Nam hiện nay. Nó gắn liền với yêu cầu độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Hơn nữa, nó cũng gắn liền với quyền lợi kinh tế của quốc gia: Trước mắt, đó là nguồn thủy sản chính của Việt Nam; về lâu dài, theo sự tiên đoán của các nhà khoa học, đó cũng là nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng dầu khí to lớn.
Trong bộ phim tài liệu về Hoàng Sa được phát trên đài truyền hình Sài Gòn trước năm 1975, mới đây được chiếu lại trên đài truyền hình Đồng Nai, có một câu tôi rất thích: “Nghĩa vụ cao cả nhất của chính quyền là bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. Điều đó, thật ra, ngay từ xưa, cha ông chúng ta đã nhận thấy. Trong Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục (tập 1,nxb Giáo dục,1998, tr. 1121) có ghi lời chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông năm 1471 như sau:
“Nhà vua dụ bảo Lê Cảnh Huy rằng: ‘Nay nhận được tờ tấu của viên quan An Bang tâu: ‘Người nhà Minh sai nhiều binh lính từ Quảng Tây sang, nói phao là sang hội đồng khám địa giới.’ Việc này cần phải sai người dò thám ngay, nếu thấy có ý gì khác, phải lập tức đưa công văn đi các đạo tập hợp binh lính phòng giữ. Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được? Phải kiên quyết tranh luận, không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ sang tận triều đình của họ, biện bạch rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại để làm mồi cho giặc, người ấy sẽ bị trừng trị nặng.”
Thứ hai, đó cũng là một thách thức lớn đối với lòng yêu nước và tự hào dân tộc của mọi người Việt Nam. Bình thường, đối với mọi người, ở mọi nơi, bất cứ mảnh đất nào thuộc lãnh thổ của cha ông để lại cũng đều thiêng liêng. Bởi chúng không phải chỉ là đất. Chúng còn là xương và máu, là sự hy sinh của bao nhiêu thế hệ đi trước. Việc bảo vệ lãnh thổ, cho dù là một số đảo nhỏ bé và xa xôi, do đó, vượt ra ngoài mọi sự tính toán về lợi và hại thông thường. Nó là danh dự và là một mệnh lệnh của đạo đức.
Thách thức thứ hai trở thành một thách thức khác đối với chính quyền: Việc bảo vệ độc lập và chủ quyền trên Biển Đông gắn liền với uy tín, thậm chí, tính chính đáng của việc lãnh đạo đất nước. Sự thất bại trước thách thức ấy tất yếu dẫn đến sự thất vọng, thậm chí, bất mãn của dân chúng. Cuộc đương đầu của chính quyền với Trung Quốc trên Biển Đông, do đó, dễ trở thành cuộc đương đầu giữa chính quyền và dân chúng, hoặc ít nhất, một bộ phận càng ngày càng đông đảo trong dân chúng, những người còn quan tâm đến đất nước và còn nặng lòng tự hào dân tộc. Trước sự thắc thỏm lo âu hoặc sôi sục căm giận của một số người dân trước âm mưu xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam hiện hình như những kẻ bất lực, thậm chí, ngu xuẩn (tin tưởng một cách ngây thơ vào những lời hứa hão của Trung Quốc) và hèn hạ (quy lụy một cách quá đáng trước những thái độ ngang ngược và hỗn láo của Trung Quốc).
Thứ ba, vấn đề Biển Đông không phải chỉ là một thách thức đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hay giữa chính phủ Việt Nam và người dân Việt Nam mà còn trở thành một thách thức lớn đối với vấn đề địa chính trị (geopolitics) trong khu vực và thế giới.
Trước hết, trong khu vực: Hoàng Sa là nơi tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan; ở Trường Sa, có nhiều quốc gia giành giật chủ quyền hơn: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
Hơn nữa, giành chủ quyền trên đảo cũng có nghĩa là giành cả chủ quyền trên vùng biển chung quanh đảo (theo quy ước là 12 hải lý tính từ đảo người ta giành chủ quyền). Nối các vùng biển bao quanh Hoàng Sa và Trường Sa lại với nhau, Trung Quốc hình thành con đường lưỡi bò (hoặc đường chữ U hoặc đường 9 đoạn), lấn hẳn vào hải phận của Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines.
Nếu con đường lưỡi bò này được công nhận, Trung Quốc sẽ khống chế một trong những con đường hàng hải quan trọng và tấp nập nhất trên thế giới, nơi mỗi năm có mấy chục ngàn chiếc tàu, cả quân sự lẫn dân sự, qua lại. Số lượng dầu khí được chở ngang qua Biên Đông nhiều gấp bảy lần qua kênh đào Suez và 17 lần qua kênh Panama.
Giới bình luận chính trị tiên đoán, một ngày nào đó, Trung Quốc cũng sẽ thiết lập vùng nhận diện phòng không trên con đường lưỡi bò ấy như cái điều họ mới làm ở biển Hoa Đông, chung quanh khu vực tranh chấp với Nhật Bản.
Đến lúc đó, Trung Quốc không những chỉ làm chủ các hòn đảo và các tài nguyên thiên nhiên ẩn giấu dưới những hòn đảo ấy mà còn làm chủ cả vùng biển và vùng trời chung quanh Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính viễn tượng ấy khiến việc tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nói chung mang tầm vóc quốc tế. Không có cường quốc kinh tế hay quân sự nào có thể dửng dưng được: Một số lượng rất lớn tàu bè cũng như máy bay của họ thường xuyên bay ngang qua đó. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết các quốc gia tự chủ và tự trọng đều lên tiếng phản đối Trung Quốc kịch liệt. Mỹ lại cần lên tiếng. Mà không phải chỉ cần lên tiếng suông: Mỹ cần phải hành động.
Hành động dễ thấy nhất là Mỹ càng ngày càng dấn sâu vào vùng châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một khu vực khá rộng, bao gồm toàn bộ châu Á, toàn bộ vùng Australasia (Úc, Tân Tây Lan, đảo New Guinea) cũng như các đảo quốc thuộc Thái Bình Dương. Bất cứ địa điểm nào trong khu vực này cũng đều quan trọng trong việc cân bằng cán cân lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, trong các địa điểm ấy, có những địa điểm có tầm quan trọng về chiến lược hơn. Trong số các địa điểm có tầm quan trọng chiến lược ấy, địa điểm quan trọng nhất chính là Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là Trường Sa, nơi, do địa thế, đóng vai trò như một cái yết hầu, một trạm kiểm soát của toàn bộ Biển Đông.
Bởi vậy, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như một số nước trong vùng Đông Nam Á, dù muốn hay không, cũng trở thành mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi mâu thuẫn ấy càng gay gắt, thế đứng của Việt Nam càng chênh vênh: Đến một lúc nào đó, Việt Nam không thế cứ lấp lửng, ỡm ờ, kiểu bắt cá hai tay được. Việt Nam phải lựa chọn: hoặc ngả theo Trung Quốc hoặc ngả theo Mỹ. Ngả theo Trung Quốc thì dễ, chỉ cần một điều kiện duy nhất: hy sinh sự độc lập và chủ quyền. Ngả theo Mỹ thì khó hơn, vì trong quan hệ ngoại giao, dưới áp lực của dư luận, Mỹ cần sự tin cậy. Sự tin cậy được vun đắp từ hai yếu tố: một, thành thực, và hai, thời gian thử thách. Việt Nam không thể đợi đến lúc Trung Quốc động binh mới cầu thân với Mỹ: lúc ấy đã quá muộn. Việt Nam cũng không thể cầu thân với Trung Quốc theo kiểu nói trên diễn đàn quốc tế một đường, thực hành trong nước một nẻo: Đó là sự giả dối.
Trước, trong các giờ địa lý hoặc chính trị, học sinh Việt Nam thường được dạy: Việt Nam may mắn nằm ngay trên trục giao thông giữa Đông và Tây. Thật ra, thời hiện đại, dưới tác động của địa chính trị, địa thế ấy là một điều bất hạnh: Nó rất dễ thành chiến trường của các lực lượng quốc tế. Như cái điều đã xảy ra trong suốt thời Chiến tranh lạnh. Thời chống khủng bố, chiến trường ấy chuyển sang Trung Đông. Nay, từ sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Mỹ, chiến trường ấy rất có khả năng chuyển hướng sang Việt Nam.
Viễn tượng ấy không đáng vui chút nào cả.
Nguyễn Hưng Quốc
Thứ nhất, vấn đề Biển Đông là một thách thức lớn, nếu không muốn nói là lớn nhất, đối với chính quyền Việt Nam hiện nay. Nó gắn liền với yêu cầu độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Hơn nữa, nó cũng gắn liền với quyền lợi kinh tế của quốc gia: Trước mắt, đó là nguồn thủy sản chính của Việt Nam; về lâu dài, theo sự tiên đoán của các nhà khoa học, đó cũng là nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng dầu khí to lớn.
Trong bộ phim tài liệu về Hoàng Sa được phát trên đài truyền hình Sài Gòn trước năm 1975, mới đây được chiếu lại trên đài truyền hình Đồng Nai, có một câu tôi rất thích: “Nghĩa vụ cao cả nhất của chính quyền là bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. Điều đó, thật ra, ngay từ xưa, cha ông chúng ta đã nhận thấy. Trong Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục (tập 1,nxb Giáo dục,1998, tr. 1121) có ghi lời chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông năm 1471 như sau:
“Nhà vua dụ bảo Lê Cảnh Huy rằng: ‘Nay nhận được tờ tấu của viên quan An Bang tâu: ‘Người nhà Minh sai nhiều binh lính từ Quảng Tây sang, nói phao là sang hội đồng khám địa giới.’ Việc này cần phải sai người dò thám ngay, nếu thấy có ý gì khác, phải lập tức đưa công văn đi các đạo tập hợp binh lính phòng giữ. Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được? Phải kiên quyết tranh luận, không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ sang tận triều đình của họ, biện bạch rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại để làm mồi cho giặc, người ấy sẽ bị trừng trị nặng.”
Thứ hai, đó cũng là một thách thức lớn đối với lòng yêu nước và tự hào dân tộc của mọi người Việt Nam. Bình thường, đối với mọi người, ở mọi nơi, bất cứ mảnh đất nào thuộc lãnh thổ của cha ông để lại cũng đều thiêng liêng. Bởi chúng không phải chỉ là đất. Chúng còn là xương và máu, là sự hy sinh của bao nhiêu thế hệ đi trước. Việc bảo vệ lãnh thổ, cho dù là một số đảo nhỏ bé và xa xôi, do đó, vượt ra ngoài mọi sự tính toán về lợi và hại thông thường. Nó là danh dự và là một mệnh lệnh của đạo đức.
Thách thức thứ hai trở thành một thách thức khác đối với chính quyền: Việc bảo vệ độc lập và chủ quyền trên Biển Đông gắn liền với uy tín, thậm chí, tính chính đáng của việc lãnh đạo đất nước. Sự thất bại trước thách thức ấy tất yếu dẫn đến sự thất vọng, thậm chí, bất mãn của dân chúng. Cuộc đương đầu của chính quyền với Trung Quốc trên Biển Đông, do đó, dễ trở thành cuộc đương đầu giữa chính quyền và dân chúng, hoặc ít nhất, một bộ phận càng ngày càng đông đảo trong dân chúng, những người còn quan tâm đến đất nước và còn nặng lòng tự hào dân tộc. Trước sự thắc thỏm lo âu hoặc sôi sục căm giận của một số người dân trước âm mưu xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam hiện hình như những kẻ bất lực, thậm chí, ngu xuẩn (tin tưởng một cách ngây thơ vào những lời hứa hão của Trung Quốc) và hèn hạ (quy lụy một cách quá đáng trước những thái độ ngang ngược và hỗn láo của Trung Quốc).
Thứ ba, vấn đề Biển Đông không phải chỉ là một thách thức đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hay giữa chính phủ Việt Nam và người dân Việt Nam mà còn trở thành một thách thức lớn đối với vấn đề địa chính trị (geopolitics) trong khu vực và thế giới.
Trước hết, trong khu vực: Hoàng Sa là nơi tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan; ở Trường Sa, có nhiều quốc gia giành giật chủ quyền hơn: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
Hơn nữa, giành chủ quyền trên đảo cũng có nghĩa là giành cả chủ quyền trên vùng biển chung quanh đảo (theo quy ước là 12 hải lý tính từ đảo người ta giành chủ quyền). Nối các vùng biển bao quanh Hoàng Sa và Trường Sa lại với nhau, Trung Quốc hình thành con đường lưỡi bò (hoặc đường chữ U hoặc đường 9 đoạn), lấn hẳn vào hải phận của Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines.
Nếu con đường lưỡi bò này được công nhận, Trung Quốc sẽ khống chế một trong những con đường hàng hải quan trọng và tấp nập nhất trên thế giới, nơi mỗi năm có mấy chục ngàn chiếc tàu, cả quân sự lẫn dân sự, qua lại. Số lượng dầu khí được chở ngang qua Biên Đông nhiều gấp bảy lần qua kênh đào Suez và 17 lần qua kênh Panama.
Giới bình luận chính trị tiên đoán, một ngày nào đó, Trung Quốc cũng sẽ thiết lập vùng nhận diện phòng không trên con đường lưỡi bò ấy như cái điều họ mới làm ở biển Hoa Đông, chung quanh khu vực tranh chấp với Nhật Bản.
Đến lúc đó, Trung Quốc không những chỉ làm chủ các hòn đảo và các tài nguyên thiên nhiên ẩn giấu dưới những hòn đảo ấy mà còn làm chủ cả vùng biển và vùng trời chung quanh Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính viễn tượng ấy khiến việc tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nói chung mang tầm vóc quốc tế. Không có cường quốc kinh tế hay quân sự nào có thể dửng dưng được: Một số lượng rất lớn tàu bè cũng như máy bay của họ thường xuyên bay ngang qua đó. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết các quốc gia tự chủ và tự trọng đều lên tiếng phản đối Trung Quốc kịch liệt. Mỹ lại cần lên tiếng. Mà không phải chỉ cần lên tiếng suông: Mỹ cần phải hành động.
Hành động dễ thấy nhất là Mỹ càng ngày càng dấn sâu vào vùng châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một khu vực khá rộng, bao gồm toàn bộ châu Á, toàn bộ vùng Australasia (Úc, Tân Tây Lan, đảo New Guinea) cũng như các đảo quốc thuộc Thái Bình Dương. Bất cứ địa điểm nào trong khu vực này cũng đều quan trọng trong việc cân bằng cán cân lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, trong các địa điểm ấy, có những địa điểm có tầm quan trọng về chiến lược hơn. Trong số các địa điểm có tầm quan trọng chiến lược ấy, địa điểm quan trọng nhất chính là Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là Trường Sa, nơi, do địa thế, đóng vai trò như một cái yết hầu, một trạm kiểm soát của toàn bộ Biển Đông.
Bởi vậy, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như một số nước trong vùng Đông Nam Á, dù muốn hay không, cũng trở thành mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi mâu thuẫn ấy càng gay gắt, thế đứng của Việt Nam càng chênh vênh: Đến một lúc nào đó, Việt Nam không thế cứ lấp lửng, ỡm ờ, kiểu bắt cá hai tay được. Việt Nam phải lựa chọn: hoặc ngả theo Trung Quốc hoặc ngả theo Mỹ. Ngả theo Trung Quốc thì dễ, chỉ cần một điều kiện duy nhất: hy sinh sự độc lập và chủ quyền. Ngả theo Mỹ thì khó hơn, vì trong quan hệ ngoại giao, dưới áp lực của dư luận, Mỹ cần sự tin cậy. Sự tin cậy được vun đắp từ hai yếu tố: một, thành thực, và hai, thời gian thử thách. Việt Nam không thể đợi đến lúc Trung Quốc động binh mới cầu thân với Mỹ: lúc ấy đã quá muộn. Việt Nam cũng không thể cầu thân với Trung Quốc theo kiểu nói trên diễn đàn quốc tế một đường, thực hành trong nước một nẻo: Đó là sự giả dối.
Trước, trong các giờ địa lý hoặc chính trị, học sinh Việt Nam thường được dạy: Việt Nam may mắn nằm ngay trên trục giao thông giữa Đông và Tây. Thật ra, thời hiện đại, dưới tác động của địa chính trị, địa thế ấy là một điều bất hạnh: Nó rất dễ thành chiến trường của các lực lượng quốc tế. Như cái điều đã xảy ra trong suốt thời Chiến tranh lạnh. Thời chống khủng bố, chiến trường ấy chuyển sang Trung Đông. Nay, từ sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Mỹ, chiến trường ấy rất có khả năng chuyển hướng sang Việt Nam.
Viễn tượng ấy không đáng vui chút nào cả.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching