Đã Dân-chủ thì Không Cộng-sản
Quyền công dân đích thực ở Việt Nam là gì ?
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Download at 4shared
|
|||||||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Trong thời gian qua chúng ta có thể thấy
hàng loạt các vụ bắt bớ các blogger như nhà văn Nguyễn Quang Lập (nick name :
Bọ Lập), Blogger Người lót gạch Nguyễn Hồng Thọ…Điều oái oăm thay là những
người bị băt này đã từng một thời theo đảng, ủng hộ đảng. Cho đến bây giờ, họ
cũng không chống đảng mà chỉ đòi đảng cho dân chủ tự do và bảo vệ tổ quốc trước
nạn Hán tộc. Nhưng đảng cộng sản vẫn bắt họ vì đủ lý do như 258, 88 hay 79 của
mớ luật rừng do đảng đẻ ra. Và nó cũng cho thấy một điều đó là đảng đã ra tăng bắt
bớ những người blogger để bù lại việc đảng thả Minh Hạnh và Điếu Cày. Rõ ràng,
những người đấu tranh cho dân chủ tự do tại Việt Nam đã được đảng coi như món
hàng trao đổi với Hoa Kỳ. Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách: Thả một, bắt
thêm mười để lấy cớ trao đổi với Hoa Kỳ. Cụ thể ở đây chính là cái ghế trong
hiệp định TPP sắp đến gần mà đảng đang muốn đem những “vật tế thần “ ra trao
đổi.
Biếm họa của họa sỹ PHO
đã nói rất đúng thực tế ở Việt Nam !
Nếu chúng ta chịu khó nhìn lại cả một quá trình
bắt bớ của cộng sản Việt Nam thì họ sử dụng rất “linh hoạt” các điều luật trong
bộ luật hình sự để bắt giữ các blogger hoặc các nhà đấu tranh cho dân chủ. Với
luật sư Lê Quốc Quân là trốn thuế, với luật sư Cù Huy Hà Vũ là “hai bao cao su”
rồi dẫn đến vô vàn lý dó khác. Và mới đây Bọ Lập, Người Lót Gạch là 258. Như
vậy chúng ta nếu chỉ đấu tranh đòi dân chủ khi giới hạn bỏ các điều luật rừng
của cộng sản là chưa đủ. Cộng sản Việt nam có thể bỏ điều 258, có thể bỏ 79
hoặc 88 thì lại đẻ ra điều khác và vận dụng ngay cả côn đồ để đánh lén như cách
đánh nhà báo tự do Trương Minh Đức trong thời gian gần đây. Lý do này cho thấy,
một nền dân chủ cho Việt Nam không thể có cộng sản được. Cộng sản không chấp
nhận có tự do và dân chủ !
Với cộng sản thì Dân chủ
là : BỊT MIỆNG .
Nếu chúng ta nhìn ra thế giới, nền dân chủ tại
Nga hay Campuchia hiện nay là bài học lớn mà mọi người đã thấy đó là chế độ tân
độc tài với cái đuôi tàn dư cộng sản. Nói cách khác nó là sản phẩm của dân chủ
cuội mà ra. Ngoài ra, bài học Miến Điện năm 1990 còn đó. Liên đoàn Quốc gia vì
Dân chủ của bà Aung San Suu Kyi đã thắng 392 trong tổng số 485 ghế, chiếm hơn
60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử, nhưng các kết quả của
cuộc bầu cử đã bị SLORC (Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang) huỷ
bỏ và họ từ chối giao lại quyền lực.. Bà Aung San Suu Kyi và đảng viên của bà
đã phải vào tù, bị đánh đập tàn bạo, hành hạ tơi bời. Hiện nay dù Liên đoàn
Quốc gia vì Dân chủ của bà Aung San Suu Kyi đã trở lại chính trường nhưng với
số ghế dành sẵn cho đám quân phiệt Miến, thì suốt đời bà Aung San Suu Kyi và
đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ cũng chỉ làm cộng cụ phục vụ cho đám quân
phiệt Miến đội lốt dân chủ cuội để biến thành thực dân nội địa Miến Điện mà
thôi. Chúng ta cũng đừng quên báo chí nhà cầm quyền cộng sản đang loan tin về
cái gọi là “trốn chạy” của con cái, gia đình cộng sản Việt Nam trước nguy cơ
sụp đổ của chúng đang đến gần. Nếu chúng ta để tình trạng Việt Nam diễn ra theo
kiểu Miến Điện, Nga…thì những tài sản là của dân tộc Việt Nam sẽ mãi được những
tên tham quan cộng sản và gia đình chúng “bảo lưu”. Chính vì vậy đây cũng là
một lý do cho chúng ta phải dứt khoát đã là dân chủ không thể tồn tại cộng sản.
Một tình huống khác, nếu con đường dân chủ song
hành với cộng sản, được nhà nước cộng sản cho phép hoạt động, cũng sẽ làm công
cụ phục vụ cho chế độ dân chủ cuội như Nga, Campuchia, Miến Điện mà nạn nhân
chính là nhân dân Việt Nam sau này. Do đó, muốn có dân chủ, tự do thật sự thì
phải thật sự ly khai hoàn toàn với cộng sản, với Hồ Chí Minh. Muốn làm được
điều đó chúng ta phải làm từng bước một thật chắc chắn và động viên toàn dân
đứng lên lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam. Chính chúng ta đã từng khẳng định
lời cựu tổng thống Thiệu: “đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì
cộng sản làm” nên chúng ta cũng chẳng có lý do gì phải sống chung với một băng
đảng chỉ biết lọc lừa. Nếu chúng ta muốn tránh những việc làm bắt bớ những
người đấu tranh cho dân chủ cho tự do tại Việt Nam thì chúng ta nên:
1. Đề nghị các vị nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước cùng nhau làm
1 bản phản đối chính quyền độc tài cộng sảnViệt Nam bắt bớ blogger trái phép
như Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, Hồng Lê Thọ… hay những người yêu nước như
Nguyên Kha, Tạ Phong Tần, Đỗ Minh Hạnh vv…rồi kêu gọi tất cả những người dân
Việt Nam yêu nước cùng ký vào.Sau đó gửi ngay bản phản đối này cho Hội đồng
nhân quyền LHQ, đại diện EU về nhân quyền, thượng và hạ nghị viện Mỹ, EU…Đây là
một việc làm thiết thực và sẽ có tác dụng nhãn tiền trong một ngày gần đây, khi
Hội đồng nhân quyền đã chấp nhận đơn xin gia nhập Hội đồng nhân quyền của đảng
cộng sản Việt Nam. Nó thiết thực hơn nhiều với việc xin đảng cộng sản cho làm
một việc gì đó. Đó là một cách tố cáo bộ mặt thật của cộng sản Việt Nam khi cái
tròng cổ đã được tròng vào cổ đảng.
2. Hãy quên đi việc ký tên xin cộng sản ban phát cho dân chủ, tự do
trong đó có mong muốn cộng sản sửa đổi. Hãy làm ngay những việc cần thiết đó là
:
3. Kể rõ và đầy đủ mọi sai lầm và tội ác tày đình của Hồ Chí Minh và
cộng sản đời từ trước đến nay để nhân dân thấy rõ ràng sự thật.b.Kêu gọi toàn
dân hợp cùng nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước đứng lên vứt bỏ Hồ Chí Minh –
một tội đồ dân tộc, phải dứt khoát đoạn tuyệt với cộng sản.
Nhân sĩ trí thức thực chất cũng biết rõ đảng
cộng sản và Hồ Chí Minh đã bán nước , nhưng không dám nói thẳng sự thật mà chỉ
dám nói bóng nói gió. Ngay cả lúc Hồ Chí Minh và cộng sản cướp chính quyền của
thủ tướng Trần Trọng Kim chỉ có rất ít thấy vị nhân sĩ trí thức báo động cho
dân tộc như cụ Tô Hải, Hữu Loan. Rõ ràng để đáp ứng với lòng mong mỏi của người
dân và tổ quốc thì những trí thức phải thật sự dấn thân. Xin đừng ngồi và van
xin đảng cộng sản nữa. Hãy dũng cảm vứt bỏ đảng cộng sản, vứt bỏ Hồ Chí Minh.
Không thể có chuyện chống đảng cướp mà lại tôn thờ chủ soái của đảng cướp đó
được !
Bây giờ giặc đã vào nhà của chúng ta, chúng sẽ
bắt con cháu chúng ta làm nô lệ cho chúng, chúng phá nhà chúng ta, chúng đang
tung hoành khắp nước ta, đất ta đã mất một phần, biển ta đã mất gần hết và đất
nước sắp rơi vào tay giặc, nòi giống sắp bị tuyệt chủng thế mà vẫn còn có các
vị trí thức nhân sĩ không chịu đứng ra nói lên lời hiệu triệu tòan dân xuống
đường tiêu diệt bè lũ bán nước đảng cộng sản và tiêu diệt bè lũ bán nước mà chỉ
kêu gọi ký “ôn hòa”, hết cái này đến cái khác đó là một việc làm không thực tế.
Nếu ký xin đảng cộng sản một cách “ôn hòa” làm đảng cộng sản sụp đổ thì đã
không có dân oan, không có tù nhân lương tâm hay những vụ giặc ngồi ngay tại
Tây Nguyên. Cũng chỉ vì “ký” ôn hòa mà cuối cùng giặc vẫn vào Việt Nam, cộng
sản vẫn bắt những người yêu nước . Đó là những sai lầm mà chúng ta cần phải
tránh.
Khi đảng cộng sản đã ngồi một ghế trong Hội đồng
nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì biện pháp hữu hiệu nhất để đòi nhân quyền là
xuống đường biểu tình đòi nhân quyền để dư luận thế giới thấy rõ cộng sản đàn
áp nhân quyền như thế nào. Thế nhưng như chúng ta đã từng thấy các vị nhân sĩ
trí thức này để khoảng chục blogger đơn độc lội hết đại sứ quán này sang đại sứ
quán khác. Tại sao quí vị không dẫn đầu những đòan blogger này đi các đại sứ
quán cho con cháu học tập? Tại sao những vị trí thức không làm việc có ý nghĩa
hơn là đem việc cộng sản vi phạm nhân quyền đến Liên Hiệp Quốc mà chỉ biết xin
cộng sản cho thực hiện việc này nọ với những chữ ký mà cộng sản không coi vào
đâu?.
Trên thực tế chúng ta cũng thấy tại Văn giang,
Vụ bản, Mường Nhé, Mỹ Yên…hàng ngàn vụ nhân dân đơn độc chống đảng cướp ngày
cũng không thấy nhân sĩ trí thức giúp đỡ cụ thể gì hết, vậy nhân dân có thể
trông chờ gì ở quí vị? Các trí thức đã ở đâu khi dân oan mất đất và bị đánh
đập? Các vị ở đâu khi biểu tình chống Tàu bị đàn áp. Có những vị tuyên bố về
cộng sản vi phạm sai trái trong vụ của Nguyên Kha, của Đoàn Văn Vươn nhưng chỉ
có 1 số người yêu nước thực sự đến có mặt tại tòa. Đó là những sai lầm của đấu
tranh với cộng sản cần phải thay đổi.
Nên kêu gọi các tổ chức quốc tế và các nhà đầu
tư nước ngoài hãy nhìn rõ về vấn đề nhân quyền để họ thôi không hợp tác làm ăn
với cộng sản. Đó là con đường ngắn để ngăn không cho cộng sản hút máu của nhân
dân.Bằng chứng là mới đây, hãng tư vấn Wealth-X ở Singapore và ngân hàng UBS
Thụy Sỹ vừa công bố báo cáo cho biết, Việt Nam đứng thứ hai trong số các nước
Đông Nam Á có số người siêu giàu tăng mạnh trong vòng một năm qua. Việt Nam
được xếp thứ hai sau Thái Lan với mức tăng 14,7. Theo báo cáo này thì số người
Việt gia nhập câu lạc bộ siêu giàu hiện là 225 người, với tổng tài sản trên 25
tỷ USD. Bên cạnh đó, theo Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc , tính đến năm 2010,
vẫn có 8,01 triệu dân Việt Nam sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn trăm bề.
Tình trạng không nhà cửa và thất học xảy ra ở nhiều địa phương khắp cả nước.
Thậm chí, nghèo đói đến mức nhiều người dân Việt Nam phải tìm đến cái chết để
tự giải thoát cho mình. Điển hình là vụ việc của chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân (48
tuổi, ngụ xã An Xuyên, TP Cà Mau – Cà Mau) đã treo cổ tự tử vào đầu tháng
5/2013 để gia đình được cấp sổ hộ nghèo và các con được đi học.
Trong khi số lượng người siêu giàu tăng nhanh,
còn lượng người “siêu nghèo” cũng tăng chẳng kém. Cũng theo Báo cáo của Cục
thống kê nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cho thấy, khoảng cách thu nhập giữa người
giàu và nghèo tại Việt Nam đã tăng từ 8,9 lần trong năm 2008 lên 9,2 lần trong
năm 2011. Thu nhập trung bình của khu vực thành thị cao hơn gần gấp 10 lần thu
nhập trung bình dao động ở mức 30 usd/tháng của nhóm thu nhập thấp. Những
chuyện trẻ em đu dây tới trường, những sự phá sản của các tập đoàn kinh tế nhà
nước đã cho thấy kinh tế chính là một tử huyệt của cộng sản mà chúng ta cần
phải tấn công mạnh hơn nữa.
Trẻ em “tương lai” của
CHXHCNVN là đây !
Có lẽ có rất nhiều nguyên nhân nhưng tựu
chung lại chỉ có một nguyên nhân chính duy nhất đó là : Chế độ cộng sản. Tại
sao lại có thể kết luận như vậy ? Có lẽ cũng không quá khó để có đáp án đúng
đắn cho điều này.
Trong những năm qua, cộng sản thực hiện chế độ
độc tài nên mọi người dân muốn tham gia kinh doanh đều phải chịu sự áp đặt của
đủ mọi quan chức từ địa phương đến trung ương, từ ngành nọ sang ngành kia. Các
quan chức cộng sản do được độc tài bảo hộ nên tha hồ hà hiếp cướp đoạt của dân
thông qua “hối lộ “ phí và đủ các thủ tục và lễ phí. Như thế người nghèo càng
nghèo hơn còn chỉ có quan chức là giàu sụ.
Đi kèm đó là việc cướp đất đai trắng trợn của
người dân để thực hiện các dự án đã làm cho tiền tài đổ vào các quan chức cộng
sản và tư bản đỏ đứng sau. Đơn cử như tại rất nhiều địa phương người ta có thể
thu hồi đất của dân với giá chỉ vài chục nghìn đồng chưa mua nổi một bát phở
trên một mét vuông để sau khi cướp được đất lại thổi phồng lên giá hàng chục,
thậm chí hàng trăm triệu đồng. Do có sự hậu thuẩn của quan chức tư trung ương
nên việc thổi giá được chấp nhận dễ dàng. Người mất đất thì ngậm đắng nuốt cay
vì mất đất ở, đât sản xuất còn người mua nhà nếu không phải là quan tham , là
tư bản đỏ thì cũng chẳng có nhà mà ở.
Ngoài ra việc vay vốn FDI, ODA của nước ngoài về
đầu tư các dự án cũng là những miếng mồi ngon cho quan tham và tư bản đỏ chia
chác lợi ích, đục khoét tài chính khiến cho có một bộ phận siêu giàu còn đại bộ
phận đất nước vẫn nghèo và mắc nợ. Đồng thời, việc cộng sản tạo cơ hội cho đầu
cơ và mua bán vàng kiểu “thằng giàu cứ giàu, thằng nghèo càng chết đói” khiến
cho xã hội ngày càng nhiều hố sâu ngăn cách. Những Ngươi nghèo đã nghèo lại khổ
hơn. Từ vơ vét tiền của dân và vay tiền nước ngoài cộng sản có thể duy trì chế
độ công an trị “còn đảng còn tiền” hiện nay. Vì vậy muốn cộng sản phải sụp đổ
thì cần phải bóp chết chúng về mặt kinh tế.
Nhìn lại mọi nguyên nhân
khổ đau từ kinh tế, xã hội, dân trí hay xa hơn là biển đảo, đất đai bị mất thì
chúng ta thấy rõ ràng nó chỉ có một nguyên nhân của mọi nguyên nhân đó là đảng
cộng sản Việt Nam. Nhìn ra Châu Âu người ta đã đặt đảng cộng sản ra khỏi vòng
pháp luật. Do đó chẳng có lý do gì chúng ta lại phải chấp nhận những thứ dân
chủ giả hiệu được ban phát bởi đảng cộng sản. Mà quá khứ cũng đã chứng minh Hồ
Chí Minh từng lập ra vài cái đảng nhưng đều là chân rết của đảng cộng sản thì
chúng ta cũng không thể có dân chủ nếu chấp nhận đảng cộng sản đứng chung trong
sân chơi đó. Dù thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải biết rằng cộng sản là một
loài quỷ, con người nếu cho phép con quỷ đứng chung mâm thì chắc chắn có ngày
con quỷ sẽ trỗi dậy máu ác độc và ăn thịt con người. Hãy dũng cảm vứt bỏ cộng
sản, vứt bỏ Hồ Chí Minh và nhìn tấm gương Campuchia, Miến Điện hay Nga để đứng
lên vì một Việt Nam : Dân Chủ KHÔNG có cộng sản !
Đặng Chí Hùng
09/12/2014
(Nguồn: Thời Mới Canada)
SỰ U TỐI CỦA LÃNH ĐẠO CỘNG SẢN VIỆT NAM
Từ ngày Lénine cướp chính quyền ở Nga
năm 1917 tới nay là được 96 gần 100 năm. Trong thời gian đó, biết bao biến cố
lịch sử đã xẩy ra trên thế giới : Nếu không kể Đại Chiến thứ Nhất ( 1917 –
1918), thì chắc chắn phải kể Đại Chiến thứ Nhì (1939 – 1945), Chiến tranh Lạnh
( 1945 – 1991), bao nhiêu chế độ và đế quốc đã sụp đổ, trong đó gần nhất có đế
quốc cộng sản Liên sô, đế quốc Pháp, đế quốc Anh, và rất nhiều biến cố chính
trị quân sự khác.
Nhìn lại quá khứ để xác định hiện tại và
một cách rất tương đối để tiên đoán tương lai, trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ
nhìn và đánh giá tài cán của lãnh đạo 2 chế độ cộng sản trong 4 chế độ còn lại
là Việt Nam và Bắc Hàn, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, liên quan trực tiếp đến
chính bản thân và dân tộc tôi.
Ngày hôm nay chúng ta
nhìn thấy ghê tởm hình ảnh của giới lãnh đạo Bắc Hàn, tối tăm, ngu muội, đưa
một đứa con nít miệng còn hôi sữa lên hàng « thiên tài về quân sự, về
chiến lược », « vị lãnh đạo anh minh, sáng suốt của dân tộc »,
giới lãnh đạo thì ăn tiêu phủ phê, đường phố nào có hình của Kim nhật Thành,
Kim chánh Nhất, thì được chiếu sáng rực rỡ ; trong khi đó thì dân chết
đói, kỹ nghệ không đủ điện dùng. Đó là hình ảnh được chiếu lớn, rọi sáng ra bên
ngoài của Bắc Hàn, chứ thực ra hình ảnh của Việt Nam dưới chế độ cộng sản hiện
nay cũng không kém : quan quyền, tiêu tiền vứt qua cửa xổ, trong khi đó
thì dân chạy ăn từng bữa ; trường học, thiếu ngân sách, nhưng giới cầm
quyền bỏ bao nhiêu tiền để duy trì xác ướp của Hồ chí Minh, lăng Hồ là một cái
gì quái dị, kiến trúc đông phương không ra đông phương, tây phương không ra tây
phương, nhố nhăng, kịch cỡm, tối tăm chẳng khác nào đầu óc giới lãnh đạo.
Ngày xưa người ta nói
đến nạn diệt chủng của Polpot bên Căm bốt, nhưng người ta quên đi những trại
cải tạo, vùng kinh tế mới của Việt cộng và cũng quên đi cộng sản Việt nam là
thầy của cộng sản Polpot : 2 người thành lập ra cộng sản Polpot
không ai hơn là Lê Duẫn và Lê đức Thọ, khi 2 ông này đặc trách vấn đề miền Nam
Việt Nam của đảng cộng sản.
Nếu nói tới tài cán, thì
là tài cán vặt, « khôn nhà dại chợ « , « ác với dân và ngu với
giặc « , như người dân Việt hiện nay thường nói, thực ra chữ tôi muốn
dùng, là sự u tối : u tối từ Hồ chí Minh cho tới ngày hôm nay với Nguyễn
phú Trọng, nhất là về đường lối chính trị ngoại giao lâu dài.
I ) Một nhà chính
khách đã nói : « Lịch sử nhân loại có nhiều trang sử đau thương và
đẫm máu. Nhưng trang sử đau thương và đẫm máu nhất là trang sử cộng sản. »
Từ đó người ta cũng có
thể nói :
« Lịch sử Việt nam
có nhiều trang sử đau thương và đẫm máu. Nhưng trang sử đau thương và đẫm máu
nhất vẫn là trang sử cộng sản. »
Thật vậy, từ ngày Hồ chí
Minh nổi lên cướp chính quyền năm 1945 tới nay, đất nước không ngừng bị lệ
thuộc ngoại bang, dân Việt lúc nào cũng bị đau khổ.
Họ Hồ và giới lãnh đạo không coi đất Việt và dân Việt là cứu cánh, và dùng chủ thuyết hay ngoại bang như phương tiện để phục vụ, mà ngược lại, lại dùng chủ thuyết hay ngoại bang như cứu cánh, và dùng đất Việt, dân Việt như phương tiện để phục vụ ngoại bang hay chủ thuyết ngoại bang.
Họ Hồ và giới lãnh đạo không coi đất Việt và dân Việt là cứu cánh, và dùng chủ thuyết hay ngoại bang như phương tiện để phục vụ, mà ngược lại, lại dùng chủ thuyết hay ngoại bang như cứu cánh, và dùng đất Việt, dân Việt như phương tiện để phục vụ ngoại bang hay chủ thuyết ngoại bang.
Để có một thí dụ dễ hiểu
trong lịch sử cận đại, xin nhắc đến De Gaulle, người mà tôi cũng không có cảm
tình, vì là người đầu tiên chủ trương và thực hiện chế độ thuộc địa sau Đệ Nhị
thế Chiến. Không ai chối cãi được rằng nếu không có Hoa Kỳ, không có cuộc đổ bộ
tháng 6/1944, ở Normandi, thì không có De Gaulle và không có giải phóng nước
Pháp. De Gaulle đã nhờ đến Hoa kỳ như phương tiện, nhưng sau đó nghĩ đến độc
lập và hạnh phúc của dân Pháp, mà sau này, có lúc De Gaulle chống cả Hoa kỳ như
việc rút khỏi khối Bắc Đại Tây Dương năm 1967, cứu cánh của ông là độc lập xứ
Pháp và dân tộc Pháp, chứ không phải ý thức hệ nhập cảng từ bên ngoài và ngoại
bang.
Ngược lại Hồ chí Minh và
đảng Cộng sản Việt Nam thì khác.
Chưa có một lãnh đạo
quốc gia nào thản nhiên tuyên bố như Hồ chí Minh : « Tôi không có tư
tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. »
Tiếp đến con cháu, tiêu
biểu là Lê Duẫn, cũng ngang nhiên tuyên bố :
« Chúng tôi đánh
đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng. »
Ngày hôm nay thì giới
lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn tôn thờ Hồ chính Minh, Lê Duẫn. Hiến pháp hiện
hành của họ vẫn có câu :
« Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt nam lấy lý thuyết Mác Lê và tư tưởng Hồ chí Minh làm nền tảng
cho chế độ. »
Quả là một sự u muội cho
tới ngày hôm nay.
I I ) Sự u muội đầu tiên
không phải là của riêng giới lãnh đạo cộng sản Việt nam mà cả giới lãnh đạo
cộng sản Tàu và cả giới lãnh đạo cộng sản Nga, bắt đầu bởi Lénine, là lao đầu
theo Mác, một chủ thuyết đã bị các dân tộc Âu châu chối bỏ.
Một câu hỏi đến với
nhiều người là tại sao lý thuyết của Marx, được khai sinh từ Âu châu, hơn nữa,
Marx lại cho rằng lý thuyết của mình chỉ có thể thực hiện tại những nước kỹ
nghệ tân tiến này, mà lại không thành công ở châu Âu ?
Để trả lời câu hỏi này
có rất nhiều nguyên do, tôi xin tạm sơ lược một vài cái chính :
Nếu nói thật sâu xa, thì
truyền thống chống những người vô thần, ngụy biện, đạo đức giả, đồng thời nêu
cao giá trị chân thiện mỹ ( trọng sự thật, trọng điều tốt lành, yêu cái đẹp),
trọng con người, đã có từ lâu trong những sách tôn giáo, triết lý, đông lẫn
tây, xa xưa của nhân loại :
« Hắn tự ru ngủ
bằng một lý thuyết đơn giản, ngụy biện, sai lầm và phản sự thật. Hắn tự khoác
vào người một bộ áo đạo đức giả, nhưng bản chất thật của hắn thì vô cùng gian
manh, giảo quyệt và ác ôn côn đồ. Hắn đã hạ thấp hình ảnh tốt đẹp và cao thượng
của con người xuống hàng cầm thú, rắn rết và bò sát. » (1)
Ngày hôm nay suy ngẫm,
áp dụng câu này cho lý thuyết vô thần của Marx và những người cộng sản quả
không sai.
Nếu gần, thì người Âu
châu đã hiểu ngay từ lúc đầu lý thuyết của Marx chỉ là không tưởng, không có
một tý gì là khoa học. Nhà đại văn hào Pháp, ông Victor Hugo ( 1802 – 1885), có
thể nói là người đồng thời với Karl Marx (1818 – 1883), có nói :
« Bắt con đại bàng
làm con chim chích, buộc con thiên nga làm con vịt trời, bỏ tất cả mọi thứ, mọi
người vào một giỏ, rồi xóc, để có cái gì cũng như nhau, ai cũng như ai. Đó là
cộng sản. Và đó cũng là điều mà tôi không thích. »
Ông Pierre Joseph
Proudhon (1809 – 1865), người đã từng bút chiến với Marx, sau cùng cũng đi đến
kết luận : « Nếu lý thuyết của Marx được áp dụng thì nó sẽ trở thành
con sán lãi, hút hết máu mủ của dân. » Ngày hôm nay, qua kinh nghiệm cộng
sản, người ta mới thấy lời tiên tri của Proudhon là có lý. Không cần lý luận
dài dòng, chúng ta chỉ cần nhìn vào những nước cộng sản, với 2 chính quyền :
đảng cộng sản và chính quyền chính thức, cả hai đều ăn lương do thuế đóng của
dân.
Đảng cộng sản, đó chính
là con sán lãi.
Ngay cả quê quán nước
Đức, vùng Trèves, nơi sinh quán của Marx, có dựng một tượng đài của Marx, nhưng
dưới có câu : « Nơi đây là sinh quán của Karl Marx, nhưng nơi đây
không chấp nhận tư tưởng của ông. »
Những người Đức như ông
Ferdinand Lassalle ( 1825 – 1864), người biết rất rõ Marx, người thành lập ra
đảng Dân chủ Xã hội Đức năm 1863, mà dân Đức vừa kỷ niệm ngày thứ 150 năm thành
lập, những ông như Karl Kautski ( 1854 – 1938), ông Edouard Bernstein ( 1850 –
1932), lý thuyết gia của đảng Dân chủ xã hội Đức, đã chứng minh lý thuyết của
Marx không có khoa học và người ta không cần phải làm cách mạng bạo động như
Marx chủ trương để cải thiện xã hội và đời sống thợ thuyền.
Thật vậy, quan sát xã
hội Đức trong thời thế kỷ 19, nhất là bắt đầu từ giữa thế kỷ, Bernstein nhận
thấy xã hội Đức tiến triển rất mạnh, nhưng không chia thành 2 giai cấp như Marx
chủ trương. Đồng ý có giai cấp chủ và thợ, nhưng ở giữa có giai cấp trung lưu,
phần lớn phát xuất từ con cái những thợ thuyền, chịu khó học hỏi và chịu khó
làm việc. Nước Đức tiến được là nhờ giai tầng này.
Từ đó Bernstein cho rằng
lý thuyết của Marx không khoa học vì không theo đúng biến chuyển và thực tế xã
hội. Thêm vào đó, ông chủ trương không cần phải làm cách mạng bạo động để thay
đổi xã hội, mà người ta có thể tranh đấu qua nghị trường, trong khuôn khổ một
chính thể đại nghị, tôn trọng quyền tự do bầu cử, lập hội của dân.
Không nói đâu xa, những
người gần Marx nhất là con rể và con gái ông : con rể Paul Lafargue thì bỏ
đi theo chủ nghĩa vô trị ( anarchisme), để Marx phải than : « Tôi hi
vọng rằng Lafargue là người cuối cùng theo chủ nghĩa vô trị « ; còn
con gái thì bỏ lý thuyết của ông trở về với đạo của tổ tông là Do thái giáo.
Chúng ta đừng quên rằng Karl Marx là gốc người Do Thái. Tổ tông của ông đã bao
đời làm mục sư Do thái ở vùng Trèves.
Đối với Á châu, tiêu
biểu là nước Tàu và Việt nam, thì đã từ lâu nước Việt có một truyền thống văn
hóa tôn trọng tinh thần qua quan niệm tam giáo đồng qui và có thể nói sau
này là tứ giáo đồng qui : Phật, Lão, Khổng, Thiên chúa.
Quan niệm triết học về
con người và về vũ trụ khác hẳn quan niệm duy vật của Marx. Con người là do 2
yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành, sống hài hòa cùng vũ trụ và đồng loại,
khác hẳn quan niệm vật chất và đấu tranh giai cấp của Marx.
Câu : « Hữu
vô tương sinh, âm dương tương hòa, cao thấp tương hình, dài ngắn tương khuynh «
( Có và không sinh ra lẫn nhau, âm và dương hòa hợp với nhau, cao và thấp bổ
xung hình thể cho nhau, dài và ngắn bổ túc khuynh hướng cùng nhau), nói lên sự
khác biệt rất lớn với quan niệm duy vật biện chứng của Marx, theo đó vạn vật
kình chống lẫn nhau qua hiện tượng Đề - Phản Đề - Tổng Đề, cái này chống cái
kia, tiêu hủy cái kia để cho ra cái khác.
Một nhà nghiên cứu về
cái biến của Kinh dịch và của Biện chứng pháp đã đi đến kết luận là đi từ quan
niệm âm dương, Kinh dịch đi đến 8 quẻ chính, rồi biến thành 64 quẻ rồi không
biết bao nhiêu khả thế biến đổi khác ; trong khi đó Biện chứng pháp chỉ có
2 khả thế biến đổi ; nên đã đi đến kết luận rằng khả thế biến đổi của Kinh
dịch phong phú nhiều hơn khả thế biến đổi của Biện chứng pháp.
Chỉ tiếc những người
theo cộng sản, theo biện chứng pháp không nhìn thấy sự việc này.
Tuy nhiên chính lý
thuyết duy vật biện chứng, duy vật sử quan của Marx nhập cảng vào Á châu cũng
rất trễ. Có thể nói là vào đầu thế kỷ 20, đúng ra là vào những năm 20 của thế
kỷ này.
Thật vậy, sau khi cướp
được chính quyền năm 1917, sau 2 năm nội chiến, trong thời gian này, Lénine lập
ra Đệ Tam quốc tế cộng sản, năm 1919, lúc đầu cũng nghĩ như Marx, đó là cách
mạng tất yếu cộng sản sẽ xẩy ra ở những nước kỹ nghệ Âu châu, nhưng những cuộc
nổi dậy do đảng cộng sản đứng đằng sau như ở Hung gia lợi, năm 1918 ; và
cuộc nổi dậy của phong trào Spartakus, với sự trợ giúp của đảng cộng sản ở bên
Đức, đều thất bại.
Từ đó Lénine nghĩ việc
xuất cảng cách mạng sang các nước Á châu. Năm 1923, Lénine họp Đại hội Đệ Tam
quốc tế cộng sản, lần cuối cùng trước khi chết, có tuyên bố :
« Cách mạng cộng
sản sẽ đi qua cửa ngõ Tân đề ly (Ấn độ), Bắc kinh ( Tàu), rồi mới tới Paris (
Pháp) và Luân đôn ( Anh ) ».
Rồi Lénine ký hiệp ước
thân thiện với Tôn dật Tiên cũng vào cùng năm 1923. Tuy nhiên trước đó Lénine
đã cho người đi gặp một số nhà tranh đấu của Tàu và Việt nam, để dụ họ đi vào
Đệ Tam quốc tế cộng sản.
Trở về việc tại sao
Lénine cướp quyền được ở Nga, rồi chúng ta nói đến lý thuyết cộng sản với Á
châu sau.
Thực ra cái mà những
người cộng sản sau này cho rằng là ngày « Cách mạng cộng sản «, tháng 10
năm 1917, với sự tham gia của dân và thợ thuyền là sai. Đây là một cuộc đảo
chánh, chữ mà chính Léon Trotski, tác giả của cuộc này đã dùng. Ông viết :
« Sau một đêm ngủ, sáng hôm sau, dân thành Moscou bừng tỉnh dậy, thấy bộ
mặt của thành phố mình đã thay đổi. Cuộc đảo chánh làm cho 7 người chết và 50
người bị thương. »
Thực vậy, nếu xét tình
hình chính trị, xã hội Nga lúc bấy giờ, thì chưa chín mùi để có một cuộc cách
mạng cộng sản, như Marx nghĩ, vì 70% còn thuộc về nông dân chỉ không đầy 20%
thuộc về kỹ nghệ, phần còn lại thuộc ngành dịch vụ. Thêm vào đó, trong đảng Xã
hội, Thợ thuyền Nga, phe cánh của Lénine ở trong tình trạng thiểu số (
Bolcheviks).
Tuy nhiên Lénine đã cướp
được chính quyền là nhờ ở ngoại quốc, nhờ Bộ Tham Mưu Đức. Tại sao như vậy ?
Câu của Đức Đạt Lai Lạt
ma, khi ngài thuyết pháp ở Hambourg, Đức, làm cho chúng ta suy ngẫm không riêng
về sự cướp chính quyền của Lénine mà tất cả những chế độ cộng sản từ Âu sang Á :
« Cộng sản là loài
cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, sinh xôi nẩy nở trong rác rưởi của
cuộc đời. »
Lénine lợi dụng thời kỳ
« hoang tàn « sắp sau Đệ Nhất Thế Chiến (1914 -1917). Vào lúc đó,
nước Đức đang phải đương đầu với 2 mặt trận lớn : mặt trận phía đông
bắc với Nga, dưới thời Nga hoàng Nicolas I I, mặt trận phía tây nam với Pháp,
mặt trận này quan trọng hơn, vì 2 nước chính của trận chiến này là Đức và Pháp.
Lợi dụng tình thế, Lénine đang sống ở bên Thụy sĩ, liền tuyên bố : «
Hòa bình bằng bất cứ giá nào, ngay dù phải nhượng đất để có hòa bình và có
quyền. »
Chính vì vậy mà Bộ Tham
Mưu Đức lúc đó đã liên lạc với Lénine, đưa từ Thụy sĩ về nước, giúp tiền bạc và
cướp chính quyền.
Câu nói của Đức Đạt lai
Lạt ma không những đúng với Lénine mà còn đúng với những chế độ cộng sản khác ở
Đông Âu và Á châu. Những chế độ cộng sản từ đông Âu tới Á là đều được dựng lên
trong sự hoang tàn của Đệ Nhị Thế Chiến (1939 -1945), với sự giúp đỡ của ngoại
bang, đó là Liên sô lúc bấy giờ.
I I I ) Việc cướp chính
quyền của Hồ chí Minh và đảng Cộng sản
Ở điểm này, đảng cộng
sản Việt Nam cũng không ngoại lệ. Lợi dụng « sư hoang tàn « của Đệ
Nhị thế Chiến, họ Hồ và đảng cộng sản, được sự giúp đỡ và chỉ đạo của Liên sô
đã lợi dụng một cuộc biểu tình của công chức Hà nội đòi tăng lương, trà trộn
vào đám người biểu tình, trưng cờ cộng sản lên, lúc đầu cướp một vài công sở
như tòa đô chính, sau đó đến cướp chính quyền vào ngày 19/8 /1945, mà sau
này những người cộng sản bảo rằng đó là « Cách mạng cộng sản « với
sự tham gia của dân và thợ thuyền. Đây cũng là một cuộc đảo chính, không hơn
không kém, như Lénine, thực ra là Trotski, đã làm ở Nga.
Tiếp theo là ngày 2/9,
họ Hồ đọc tuyên ngôn ở quãng trường Ba đình, Hà nội, mà những người cộng sản
gọi là « Tuyên ngôn Độc lập « . Thực ra từ ngày này Hồ chí Minh và
đảng cộng sản đã đưa Việt Nam vào gông cùm cộng sản, biến cuộc chiến chống Pháp
thành cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản, đưa dân Việt vào vòng trầm luân, mà
hậu quả tai hại còn kéo dài cho tới ngày hôm nay.
Ở điểm này có người cho
rằng họ Hồ là người ái quốc, không cộng sản, nhưng điều này hoàn toàn sai.
Thật vậy, con người là
gì ?
Nếu không là tổng số
những điều hắn suy nghĩ và hành động.
Nếu chúng ta xét tổng số
những điều họ Hồ đã suy nghĩ và hành động, thì Hồ chí Minh là con người cộng
sản hơn là quốc gia, vì khi phải cân nhắc quyết định giữa hai hành động có lợi
cho quốc gia hay có lợi cho cộng sản, hại đến quốc gia, thì họ Hồ ngả về phía
cộng sản.
Như trên đã nói, Lénine
sau khi cướp được chính quyền, sau nội chiến và sau những cuộc nổi dậy thất bại
ở Hung gia Lợi, ở Đức, Lénine tìm cách xuất cảng « Cách mạng cộng sản »
sang những nước thuộc địa, trong đó có Tàu và Việt nam.
Lénine có cho những tay
em của mình đi khắp thế giới để tuyển chọn người theo và truyền bá tư tưởng
cộng sản. Họ Hồ đã gặp và đi theo tức khắc, qua lời tự thuật của mình, trong
quyển Những Mẩu truyện về cuộc đời Hồ Chủ tịch, tác giả là Trần dân Tiến, nhưng
chính thực là họ Hồ.
Họ Hồ mê lý thuyết Mác
và Lénine đến nỗi khi cầm được quyển Lénine viết về Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa
( Sur les Questions nationales et coloniales), thì đã cảm động đến rơi nước
mắt. Sau đó có sang Liên sô, lúc Lénine đã chết rồi, thì rất lấy làm tiếc không
được gặp mặt Lénine. Điều này chứng tỏ tư tưởng và hành động của họ Hồ là cộng
sản.
Sau đó được Đệ tam quốc
tế cộng sản huấn luyện và cho về cướp chính quyền ở Việt nam. Họ Hồ thấy dân
tộc Việt không thích cộng sản, đã giải tán đảng Cộng sản, thành lập đảng Lao
động, nhưng bên trong vẫn do hội Nghiên cứu lý thuyết Mác xít cầm đầu.
Đây là một hành động lừa
dối dân Việt.
Một người lừa dối dân
sao có thể được gọi là quốc gia dân tộc ?
Hơn thế nữa họ Hồ còn
sang Pháp, họp hội nghị Fontainebleau và ký với Pháp Hiệp ước sơ bộ, chấp nhận
cho Pháp trở lại Việt Nam.
Đây là một hành động
không những phản lại dân tộc và độc hại về cả 2 phía : Phía Pháp muốn dùng
bàn tay Cộng sản chỉ điểm để tiêu diệt những thành phần quốc gia, vì từ trước
người Pháp bị chống đối ở khắp nơi, từ Nguyễn thiện Thuật đến Phan đình Phùng,
từ phong trào Cần Vương đến phong trào Đông du của cụ Phan bội Châu, nay hợp
tác với cộng sản, nhờ cộng sản chỉ điểm, tiêu diệt hết thành phần quốc gia, rồi
sau đó tiêu diệt thành phần cộng sản. Như thế thì nền cai trị của Pháp sẽ ổn
đình. Về phía cộng sản, thì nghĩ rằng dùng tay người Pháp giết những phần tử
quốc gia, sau đó loại Pháp, thì sẽ thực hiện dễ dàng việc cộng sản hóa toàn
vùng Đông Dương ( Việt Miên Lào).
Thật ra đây là chiến thuật
mà họ Hồ được chỉ bảo bởi Staline, vì vào thời kỳ bắt đầu Đệ Nhị Thế Chiến,
Staline đã ký một Hiệp ước Thân thiện với Hitler, được mệnh danh là Hìệp ước
thân thiện Đức Liên sô ( Pacte germano – sovietique), năm 1939.
Hơn thế nữa, trong thời
gian họ Hồ vắng mặt ở Việt Nam, thì Võ nguyên Giáp, lúc đó là Bộ trưởng Nội vụ,
đã tìm cách vu oan cho Việt nam quốc dân đảng, cho công an tấn cộng trụ sở của
Việt Nam quốc dân đảng ở Hà nội, bắt các đảng viên, trói lại và buộc cục đá thả
xuống sông gần đó. Việc này những người Việt Nam quốc dân đảng, ngay cả những
người Hà nội thời đó và những người lưu tâm tới tình hình Việt nam lúc bấy giờ
biết rất rõ.
Đấy là chưa nói đến hành
động của Võ nguyên Giáp trước đó là con nuôi của trùm mật thám Pháp Marty. Việc
này do chính Lê Duẫn và Lê đức Thọ tiết lộ, vào lúc có vụ tranh quyền giữa 2
phe Giáp và Duẫn-Thọ.
Họ Hồ không thể nào là
người quốc gia khi tuyên bố, vào dịp Đại Hội I I, đảng Lao động, họp ở vùng
biên giới Việt Hoa, năm 1951, trước báo chí quốc tế và quốc nội : « Tôi
không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. »
2) Họ Hồ không thể là
người quốc gia khi nghe lời Staline và Mao phát động chiến dịch « Cải
cách ruộng đất » bắt đầu từ năm 1951 và tiếp tục vào năm 1956.
Vào năm 1950, họ Hồ đi
thăm viếng Liên sô. Chỉ cần qua 2 câu nói của Staline « Việc cải cách
ruộng đất của Việt nam đi tới đâu rồi ? » và « Đồng chí Mao được
đặc trách lo về vấn đề Việt nam « , thế là họ Hồ răm rắp nghe lời Mao,
theo chỉ thị của Staline, về thực hiện ngay từ cuối năm 1951, đầu 1952 cuộc «
Cải cách ruộng đất « , « những vùng cộng sản kiểm soát như Cao bằng,
Lạng sơn, Thanh hóa. Những người ngày xưa đã từng đổ xương máu, công sức cho
đảng cộng sản, nay cũng bị đưa ra đấu tố.
Theo chỉ thị của Tàu,
mỗi vùng phải đưa ra 5% dân số bị đấu tố, mặc dầu Việt Nam, nhất là miền Bắc,
thành phần « địa chủ « , chiếm không đầy một phần ngàn.
3) Họ Hồ không có một tý
gì là nghĩ đến quốc gia dân tộc khi gửi cả triệu thành niên nam nữ vào nam, bắt
đầu một cuộc chiến huynh đệ tương tàn
Binh thư Tôn tử có những
câu :
« Đem quân
phơi dãi lâu, thì khoản tiêu dùng trong nước không đủ. », « Việc
binh kéo dài mà nước có lợi, chưa từng có vậy. »
« Việc binh như
lửa. Dùng lửa lâu ngày sẽ có hại vào thân. »
Ở đây không riêng gì
cộng sản Việt Nam, mà có thể nói tất cả những người cộng sản, ngay từ Lénine,
Trotski chủ trương nội chiến và kéo dài nội chiến để « nhận chìm « (
noyer) tất cả những mâu thuẫn nội bộ. Như Trotski chủ trương « Cách mạng
thường trực « ( la Révolution permanante), Mao chủ trương « Chiến
tranh lâu dài « ( la Guerre prolongée), rồi Trường Chinh bắt chước, sao
chép, tóm gọn lại, với quyển sách « Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
lợi », thì cũng thế.
Những con người trên
giỏi, nếu có, thì chỉ giỏi về chiến thuật chứ không giỏi về chiến lược.
Sự khác biệt giữa chiến
thuật và chiến lược, đó là nhà chiến lược, có cái nhìn tổng quát, xa và chính
trị hơn, tìm sự thắng rồi mới chiến ; trong khi nhà chiến thuật có cái
nhìn cục bộ, ngắn hạn, tìm chiến trước tiên, rồi sau mới tìm thắng. Nhà chiến
lược nghĩ đến cái lợi cái hại lâu dài, nghĩ đến quyền lợi của quốc gia, dân
tộc, đến mạng sống của người lính ; trong khi đó nhà chiến thuật chỉ nghĩ
đến cái thắng, hi sinh mạng sống của người lính, mặc quyền lợi quốc gia, dân
tộc.
Theo Tôn tử :
« Cho nên người
giỏi dùng binh, đuổi quân của người mà không phải chiến. hạ thành của người mà
không phải đánh. Hủy nước của người mà không phải lâu….. Tất phải lấy sự toàn
thắng để tranh thiên hạ, cho nên không nhụt binh mà được toàn lợi, ấy là cái
phép mưu công đó. » ( Tôn Ngô Binh Pháp – Ngô văn Triện dịch – trang 56,
57, 58).
Nhìn trong lịch sử dài
dòng của nhân loại, chúng ta thấy những người như Văn Vương, Vũ Vương, Abraham
Lincolt, vua quan nhà Trần là những nhà chiến lược.
Văn Vương, Vũ Vương của
Tàu vào thế kỷ thứ 12 trước công nguyên, đã biết dồn tất cả mâu thuẫn quốc gia
vào một trận chiến để giải quyết tất cả cùng một lúc trong một trận chiến lược.
Vua quan nhà Trần, vào thế kỷ thứ 13, đã biết chấm dứt tất cả những mâu thuẫn
nội bộ trước và sau khi ba lần đánh đuổi quân Nguyên. Abraham Lincolt, đã
chấm dứt tất cả những mâu thuẫn nội bộ sau khi chiến thắng nội chiến.
Cũng theo Tôn Tử :
« Ấy cho nên trăm
trận đánh, trăm trận được, không phải là người giỏi trong những người giỏi.
Không đánh mà làm khuất phục được quân người, ấy là người giỏi trong những
người giỏi.”
Trở về gần hơn với Chiến
tranh Lạnh, kéo dài gần nửa thế kỷ từ cuối Đệ Nhị Thế chiến 1945 cho tới khi
Liên sô sụp đổ 1991, chúng ta phải thẳng thắn công nhận rằng chiến thắng này
không có tiếng vang lừng lẫy, có lẽ những người chiến thắng không muốn như vậy
hay vì một lý do nào khác, nhưng đây là một chiến thắng của “những người giỏi
trong những người giỏi.”
Trở về với Việt Nam,
việc gửi quân vào miền Nam để thôn tính sau này, nhiều người chỉ đổ lỗi cho Lê
Duẫn và Lê đức Thọ. Nhưng thực sự thì tất cả những người trong bộ chính trị
đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1954 cho tới sau cuộc chiến, mãi đến năm 1978,
1979, đều là những người đồng lõa, bắt đầu từ Hồ chí Minh.
Thật vậy, ngay sau vừa
ký Hiệp định Genève năm 1954, cộng sản đã tính việc xâm chiếm miền Nam bằng
cách để những cán bộ ở lại và chôn dấu võ khí, mà theo tinh thần hiệp định thì
phải rút tất cả về Bắc.
Vào năm 1959, Hồ chí Minh và Bộ Chính trị đã cho thành lập sư đoàn 5/59,
do đại tá Võ Bâm, đi dọc theo trường sơn để thành lập đường mòn Hồ chí Minh.
Ông Bâm đã lấy làm hãnh diện tuyên bố ngay trên đài truyền hình Pháp, trong một
chương trình nói về đường mòn này, ngay sau ngày 30/4/1975. Ông hãnh diện
tuyên bố: “Được lệnh của Bác và Bộ Chính trị, chúng tôi có nhiệm vụ thành lập
đường Hồ chí Minh. Chúng tôi lấy phương châm: “ Khó khăn nào cũng phải vượt
qua. Lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu .” “
Rồi liền sau đó năm 1960, thì cộng sản thành lập ra Mặt trận giải phóng
miền Nam.
4) Họ Hồ đã là một kẻ bán nước khi ra lệnh cho Phạm văn Đồng ký công hàm
1958, trả lời chính thức thư của Chu ân Lai, một cách gián tiếp, dâng những
quần đảo của Việt Nam cho Trung Cộng. Chúng ta nên nhớ là vua Trần nhân Tôn có
tuyên bố : « Những kẻ nào dâng đất và biển cho ngoại bang, dù chỉ là
một tấc đất, thì là kẻ bán nước, xứng đáng tội chu di cửu tộc. »
Trong bức thư, đề ngày 14/9/1958, trả lời Chu ân Lai, “Tổng lý Quốc Vụ
Viện nước Cộng hòa nhân dân Trung quốc”, Phạm văn Đồng có viết: “ Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng
9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, quyết định về hải
phận của Trung quốc “. Chúng ta nên nhớ là bức thư của Chu ân Lai có đính kèm
một bản đồ vẽ, theo đó hải phận của họ là hình lưỡi bò chữ U chiếm tới 75% Biển
Đông, bao gồm 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, chỉ chừa lại chưa
tới ¼ cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonésia và Việt Nam.
Thế mà giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam bắt đầu bởi Hồ chí
Minh, Phạm văn Đồng v.v…, u mê dám tán thành quyết định trên.
Quả là một hành động bán nước.
Thực ra, hành động để cho ngoại bang xâm lấn đất đai Việt Nam vào thời
Hồ, từ lúc cướp chính quyền năm 1945 cho tới khi chết năm 1969, không chỉ có
công hàm của Phạm văn Đồng, mà Trung cộng xâm lấn đất Việt nam từ năm 1950, khi
họ sửa đường xe lửa ở biên giới Việt Hoa, họ đã tự tiện dời những cột mốc phân
chia ranh giới về phía nam, có hại cho ta. Lúc đó chính báo cộng sản, tờ Nhân
dân có phản đối. Nhưng cũng chỉ phản đối cho có lệ. Như hiện nay tàu Trung cộng
bắn giết ngư phủ Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam, nhưng cộng sản Việt
cũng chỉ phản đối cho có lệ, và còn hèn hạ đó là không dám nêu tên tàu Trung
cộng, mà nói tàu lạ.
5) Họ Hồ lại càng không quốc gia dân tộc khi chết thì mơ ước đi gặp «
Các cụ Mác Lê « , không nghĩ đến việc gặp những anh hùng liệt sĩ Việt Nam. Và
hơn thế nữa trước đó vào năm 1946, khi viếng đền thờ Đức Trần Hưng Đạo mà dân
Việt đã tôn lên thành Thánh, trái lại họ Hồ làm một bài thơ gọi Đức Thánh trần
là Bác.
Trong di chúc mà họ Hồ
để lại và được công bố chính thức bởi đảng cộng sản, người ta có thấy câu nói
họ Hồ nghĩ đến việc đi « gặp các cụ Các Mác, cụ Lenin « , mà không thấy
nói đến việc đi gặp các bậc anh hùng liệt sĩ Việt Nam.
Ở đây thì họ Hồ kêu Karl
Marx, Lénine bằng cụ. Nhưng trước đó, khi mới cướp được chính quyền, Hồ chí
Minh có đi viếng đền đức Trần hưng Đạo mà dân Việt tôn lên là thánh vì đã 3 lần
đánh thắng quân Mông cổ, một quân đội hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, chiến thắng
từ Á sang Âu. Họ Hồ có làm một bài thơ như sau/
Cũng cờ, cũng kiếm cũng
anh hùng
Tôi Bác chung nhau nợ
núi sông
Bác đưa một xứ qua nô lệ
Tôi dẫn 5 châu tới đại
đồng
Bác có anh linh cười một
tiếng
Mừng tôi cách mạng đã
thành công.
Trở về vấn đề chủ thuyết
cộng sản với Á châu. Có người bảo rằng Á châu không có những sĩ phu trí thức
chống cộng sản vào đầu thế kỷ 20.
Điều này sai. Á châu
cũng có rất nhiều. Nhưng trong giới hạn bài này tôi chỉ nêu lên hai nhân vật
tiêu biểu là cụ Phan bội châu và Tướng Tưởng giới Thạch.
Cụ Phan bội Châu ( 1867
– 1940) :
Có nhiều người cộng sản
cho rằng cụ Phan là người thích cộng sản, đưa ra những bằng cớ là tại nhà cụ ở
Huế có treo hình Lénine. Nhưng người ta không thấy hình nhà cụ có hình Lénine,
chỉ là lời nói của một vài người bảo rằng đã thăm cụ, thấy, rồi nói vậy. Tuy
nhiên bằng chứng rõ rằng cụ không thích cộng sản là cụ, sau khi bị bắt ở
Tàu, rồi đưa về an trí ở Huế, mà có giả thuyết cho rằng đó là sự toa rập giữa
Hồ chí Minh và người Pháp, cụ có cộng tác với tờ báo Tiếng dân của cụ Huỳnh
thúc Kháng, một tờ báo chống chủ thuyết cộng sản mà ngày nay ai cũng có thể tìm
thấy trong thư viện. Hơn thế nữa, khi cụ được những người của Đệ tam Quốc tế dụ
cụ theo cộng sản, nhưng cụ đã tìm cách từ chối khéo, và tuyên bố : « Tôi
chẳng duy vật, cũng không duy tâm. Tôi chỉ duy dân « , mà một người đồ đệ
của cụ là Lý đông A, đã thành lập ra đảng Duy dân, lập chiến khu để vừa
chống Pháp, vừa chống cộng sản, sau đó bị cộng sản bao vây, rồi bị mất tích.
Tưởng giới Thạch ( 1887
– 1975) :
Một tướng lãnh, một quốc
khách của Tàu, lúc đầu theo Tôn dật Tiên, Trung hoa quốc dân đảng. Được họ Tôn
cử sang bên Liên sô học. Nhưng ông không ở bên đó lâu, mà lại trở về nước.
Người ta hỏi ông : « Tạị sao Tướng quân không ở bên đó để học ? »
« Tôi không có gì
để học ở bên đó. » Một lúc sau ông tiếp :
« Một con người
không có xương sống thì suốt đời chỉ bò và nằm. Xương sống của một xã hội là
giai tầng trí thức và trung lưu. Nay cộng sản chủ trương tiêu diệt hai giai
tầng này, thì xã hội cộng sản không thể đứng lên được. Vì vậy nên tôi
không có gì học ở bên đó. »
Chính vì vậy mà sau khi
họ Tôn chết năm 1925, rồi họ Tưởng lên nắm quyền ở Tàu, năm 1927, đã chủ trương
tiêu diệt cộng sản qua cuộc bắc phạt. Tiếc rằng sau đó lại có chiến tranh với
Nhật và Thế Chiến thứ Nhì, nhưng họ Tưởng vẫn chủ trương tiêu diệt cộng sản là
ưu tiên. Ông nói : « Nhật như bệnh ngoài da, sẽ thua, vì Nhật sẽ
thua Đại Chiến. Nhưng cộng sản là bệnh trong xương tủy.Phải trừ bệnh trong
xương tủy trước. »
Đây là một điều làm
người ta hiểu lầm ông vào lúc bấy giờ cho rằng ông không phải là người yêu nước ;
và cũng là một lý do chính khiến ông thua cộng sản. Chúng đã dùng nhãn hiệu «
quốc gia dân tộc « , nhưng bên trong lại chủ trương « Vô gia đình,
vô quốc gia, vô tôn giáo. », « Trí phú hào đào tận gốc, trốc tận
ngọn. »
Ngày hôm nay, người ta
mới nhận thấy họ Tưởng thật có lý và nhìn xa trông rộng.
I V ) Giới lãnh
đạo CS VN, bắt đầu từ Hồ, tới Lê Duẫn, khác với những nước cộng sản bị chia đôi
như Hàn quốc, Đức quốc, đã u mê, cuồng điên xua quân vào đánh miền Nam. Họ là
những kẻ bị các nước cộng sản đàn anh Nga, Tàu xúi dục, lâm vào cảnh « Con
nít bị xúi ăn cứt gà «, nhưng vẫn tự cho mình là « Đỉnh cao trí tuệ ».
Họ hành xử man dại đối với đồng bào ruột thịt của mình, thế mà vẫn cho mình là
« Đỉnh cao của văn minh nhân loại. «
Hồ chí Minh đã vậy. Còn
Lê Duẫn thế nào ? Có sáng suốt như người cộng sản tâng bốc « Ông trăm
nến «, sáng như trăm ngọn nến. Có phải thế không ?
Một con người mà đã từng
tuyên bố : « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên Sô và Trung cộng « ,
con người này thứ nhất là coi thường dân Việt và đất nước Việt. Nhưng sau đó
lại chửi Trung cộng hết lời. Những báo chí ngay của cộng sản vào cuối năm 70,
suốt thời kỳ 80 đã chứng tỏ rõ ràng điều đó.
Không những vậy, bám
chân Liên sô, nhưng u muội không biết Liên sô sắp sụp đổ. Chúng ta cứ lấy những
biến cố lịch sử để minh chứng :
Ngày 30/4/1975, cộng sản
Việt nam hồ hởi ăn mừng chiến thắng, đến nỗi Phạm văn Đồng tuyên bố :
« Hôm nay chúng ta giải phóng Sài gòn, ngày mai chúng ta giải phóng Hoa
thịnh Đốn. « Họ u mê đến nổi chỉ 3 tháng sau, Liên sô, đồng minh chính
của họ, Brejnev, người mà họ tin tưởng, bắt buộc phải ký hiệp định Helsinki,
ngày 1/8/1975, về an ninh Âu châu, một cách gián tiếp công nhận chiến lược tấn
công tư bản của mình thất bại. Một tướng Liên sô, người phản đối hiệp định này
đã tuyên bố : « Với hiệp định Helsinski, phòng tuyến của chúng ta đã
bị chọc thủng. » (1)
Và chỉ có một thời gian
sau thì Liên sô sụp đổ. Người sáng suốt, « Ông trăm nến « có nhìn
thấy và tiên đoán được việc này hay không ?
Hay chỉ biết nghe lời
quốc tế, ngoại bang, hi sinh quyền lợi quốc gia, dân tộc.
V ) Sự u mê cứ
tiếp tục, với Nguyễn văn Linh qua Hội Nghị Thành đô năm 1990, với Lê khả Phiêu
với 2 Hiệp ước 1999 và 2000, với Nông đức Mạnh qua vấn đề Bô xít
Ông « Trăm ngọn
nến « u mê Lê Duẫn không nhìn thấy viễn tượng sụp đổ của Liên sô, cứ bám
đít cho tơi cùng và lớn tiếng chửi Trung cộng, rồi ông chết vào năm 1986, đế
quốc Liên sô bắt đầu sụp đổ với Ba lan năm 1989, rồi Roumani, Đông Đức và cuối
cùng là Liên sô cuối năm 1990. Vì bản chất là « Căn tính nô lệ « ,
giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam vội vã đi thần phục Trung cộng qua Hội nghị
Thành đô tháng 9/1990. Chính ra sau khi Liên sô sụp đổ, giới lãnh đạo này mà
sáng suốt thì đây là một dịp ngàn vàng để tuyên bố mình độc lập với tất cả mọi
quốc gia trên trường quốc tế. Nhưng họ không làm như vậy, lục tục đi tới Thành
Đô.
Hội nghị Thành Đô 1990
là một nỗi nhục không bao giờ xóa được trong lịch sử Việt Nam. Phía Trung cộng
bỉ mặt Cộng sản Việt Nam bằng cách không cho đi bằng đường hàng không và không
tiếp ở thủ đô, mà là ở một quận lỵ tỉnh Tứ Xuyên. Đặng tiểu Bình hứa sẽ gặp
phái đoàn, nhưng sau đó không thèm gặp, mà còn tuyên bố : « Cộng sản
Việt Nam là phường ăn cháo đái bát. Tôi không thèm gặp những con người ăn cháo
đái bát này. »
Về Hội nghị Thành Đô,
nhiều người đổ lỗi cho mình Lê đức Thọ. Nhưng không phải vậy, đây cả là một tập
đoàn, bắt đầu từ Nguyễn văn Linh, Tổng bí thư Đảng, Đỗ Mười, Thủ tướng, Phạm
văn Đồng cựu Thủ tướng, Cố vấn v.v…
Theo nguồn tin bán chính
thức, nhưng đáng tin cậy, thì khi bắt đầu Hội nghị, Đỗ Mười tuyên bố trước,
quên hết những lời chửi thậm tệ Trung quốc trước đây, bằng cách tưng bốc Trung
quốc và đề nghị Trung quốc đứng ra lãnh đạo các nước cộng sản còn lại, một hình
thức Cộng sản Việt Nam chấp nhận sự bảo hộ của Trung quốc. Giang trạch Dân,
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung quốc, trên lý thuyết từ chối, nhưng trên thực
tế chấp nhận nguyên tắc này.
Và sự đô hộ của Trung
quốc bắt đầu từ đây.
Thật vậy, sự u mê của
giới lãnh đạo cộng sản Việt nam vẫn tiếp tục với Lê khả Phiêu khi ông ký 2 Hiệp
ức năm 1999, dâng cho Trung cộng cả gần 1000 km2 về đất liền, vùng biên giới,
trong đó có thác Bản dốc và ải Nam quan mà từ xưa tới nay lịch sử Việt vẫn viết :
« Nước Việt Nam bắt đầu từ ải Nam quan tới mũi Cà mâu . » Và Hiệp
ước năm 2 000 dâng cho Trung cộng cả chục ngàn cây số vùng biển.
Rồi vẫn không ngừng với
Nông đức Mạnh, qua những hiệp ước cho thuê rừng, nhượng cho Trung cộng khai
thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần, xương sống về vấn đề địa lý chiến
lược của Việt Nam.
Giới lãnh đạo cộng sản
Việt Nam đã bỏ biết bao cơ hội trong lịch sử để đưa đất nước đến độc lập thực
sự.
Không những vậy còn lún
sâu vào đô hộ của Trung quốc.
Hãy tỉnh giấc !
Đừng u mê nữa !
Ngày hôm nay, trước một
thách thức lịch sử quan trọng, đó là gia nhập Hiệp hội Thương Mại xuyên Thái bình
dương, để làm cho Việt Nam bớt lệ thuộc kinh tế Trung cộng, để cán cân thương
mại không phải lúc nào phần thất thâu cũng về phía Việt Nam, để tránh cho Việt
Nam tiếp tục thành một nơi tiêu thụ hàng phế thải của Trung cộng, bị tẩy chay
khắp thế giới, ngõ hầu đưa Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, để loại bớt dần
sự tụt hậu kinh tế, lệ thuộc nước láng giềng.
« Hiểm về đức, chứ
không hiểm về thành quách » ( Ngô Khởi). Người xưa đã nói.
Đức đây là nói giới lãnh
đạo phải nghĩ đến dân, đến tiền đồ của quốc gia dân tộc, thay vì chỉ nghĩ đến
quyền lợi cá nhân và đảng đoàn.
Một khi cái đức đã xuống
dốc, thì dù có xây vạn trường thành, vòng trong vòng ngoài, như thời nhà Minh (
1368 - 1663), mất đức, thối nát, hoạn quan hoành hành, tham nhũng hối lộ ngay
từ bên trong, ở ngay triều đình, thì rồi chế độ cũng sụp đổ.
Hãy nhìn sự sụp đổ của
đế quốc cộng sản Liên sô gần đây.
Nhiều người đổ lỗi cho
Mikhail Gorbatchev. Nhưng không phải vậy.
Trước khi chết Lionev
Brejnev đã phải than :
« Xã hội chủ nghĩa
gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp essence của công ; 1/3 bằng cấp là
giả ; công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó là đi làm việc
riêng tư hay đi coi hát ! »
Nhìn quá khứ để suy ngẫm
hiện tại và tương lai :
Hai chế độ cộng sản còn
lại là Trung cộng và Việt cộng cũng đang mắc vào tiến trình sụp đổ của Liên sô.
Lịch sử biến chuyển như
thế nào : đường thẳng, đường cong, đường tròn hay đường trôn ốc.. ?
Tất cả những thứ đó chỉ
là tưởng tượng và suy diễn : Thâu tóm tiến trình lịch sử của cả một nhân
loại trong một phương trình toán học, rồi vẽ đường biểu diễn, nếu không nói là
ấu trĩ, thì quá là giản tiện, quá tưởng tượng và tiếp tục suy diễn trong tưởng
tượng. Biết bao ẩn số cho vừa. Trong khi thì ẩn số của phương trình toán học
lại rất giới hạn.
Thực tế cho ta thấy lịch
sử nhiều khi lập lại.
Sự sụp đổ của Trung
cộng, Việt cộng trong tương lai chỉ là sự lập lại của Liên sô.
Ngày nào còn giới lãnh
đạo cộng sản u tối, mê muội, hoặc vì trình độ thấp kém, hoặc vì quá tin tưởng
vào một chủ thuyết, mà theo Nietszch : « Sự tin tưởng thái quá vào
một chủ thuyết là kẻ thù lớn nhất của chân lý và sự thật ; và đồng thời
còn là một sự lừa đảo «, thì ngày đó đất nước Việt, dân tộc Việt còn đắm chìm
trong lệ thuộc ngoại bang, trong đau khổ. Đất nước đó, dân tộc đó chỉ là phương
tiện cho mộng bành trướng bắc phương, giới lãnh đạo này chỉ là những thái thú
của thời Tần Hán khi xưa.
Dân tộc Việt, mọi giai
tầng, hãy ghi nhớ điều này. Hãy can đảm đứng lên đấu tranh giành lại độc lập,
đòi lại quyền có một cuộc sống độc lập cho dân tộc, đất nước; tự do, dân chủ,
ấm no, hạnh phúc cho chính bản thân mình ! (1)
Paris ngày 15/11/2013
Chu chi Nam
(1) Xin
xem thêm những bài về cộng sản, bài Chiến tranh Lạnh, trên : http://perso.orange.fr/chuchinam/
Hành trình đòi công lý cho
các tử tội bị hàm oan
·
·
·
·
· inShare
Ngày 05/12/2014 một sự kiện hiếm thấy trong ngành tư pháp
của Việt Nam đã diễn ra : tử tù Hồ Duy Hải được hoãn thi hành án vào giờ chót.
Bà Nguyễn Thị Loan, mẹ của tử tội, được yêu cầu đến ký giấy nhận
xác con, trước đó đã vội vã mua vé máy bay từ Long An ra Hà Nội kêu oan thêm
lần nữa. Nhưng khi nghe được tin vui không chờ đợi này, bà trả vé, đi xe ôm về
nhà, và theo tường thuật của báo chí trong nước thì bà mẹ tử tội khi bước xuống
xe đã ngất xỉu luôn ngoài cổng. Được nhóm phóng viên dìu vào nhà, cả tiếng đồng
hồ sau bà vẫn không nói được tiếng nào.
Việc hoãn thi hành án đầy kịch tính này diễn ra trong lúc nhiều
vụ án khác được cho là oan khuất mà tội nhân phải mang bản án tử hình không
phải là hiếm hoi. Tại Hà Nội, gia đình tử tội Nguyễn Văn Chưởng vốn đã đi kêu
oan từ 8 năm nay, tiếp tục chạy đua với thời gian, vì được thông báo là cuối
tháng 12 này anh Chưởng sẽ bị hành quyết.
Ông Nguyễn Trường Chinh, cha của Nguyễn Văn Chưởng, đều đặn mỗi
tuần đều từ Hải Phòng ra Hà Nội kêu oan cho con, kể lại với chúng tôi cuộc hành
trình đi tìm công lý.
Vì sao theo gia đình, anh Chưởng có bằng chứng ngoại phạm lúc vụ
án xảy ra, mà tòa án các cấp lại kết án tử hình ? Ông Nguyễn Trường Chinh cho
biết các nhân chứng bị đe dọa, đánh đập, lời khai trong hồ sơ bị thay đổi tùy
tiện. Trước nỗi oan ức này, người cha tử tù đã viết lá thư bằng máu gởi đến các
cấp lãnh đạo để kêu đòi công lý.
Bên cạnh đó, trên mạng gần đây còn lan truyền lá thư của anh
Nguyễn Văn Chưởng từ trong nhà tù gởi ra. Ông Nguyễn Trường Chinh cho biết thật
ra lá thư đã được anh gởi cho gia đình từ lâu, bằng hình thức ngụy trang.
Không chỉ gia đình bị cáo, mà cả các luật sư cũng rất gian nan
khi muốn bảo vệ cho thân chủ.
Khi được hỏi về hoàn cảnh gia đình, ông Nguyễn Trường Chinh cho
biết đã bán hết đất đai, cầm cố nhà cửa để có thể đi kêu đòi công lý cho con
suốt 8 năm qua. Lên Hà Nội gõ cửa các cơ quan công quyền, vợ chồng ông Nguyễn
Trường Chinh phải ngủ vất vưởng ngoài hiên các nhà dân. Chỉ khi nào quá mệt mỏi
hay bệnh hoạn, họ mới dám vào nhà trọ. Dù chủ trọ thương tình chỉ lấy có 10
ngàn đồng Việt Nam một người, họ cũng lâu lâu mới dám « xài sang » như thế.
Ngay cả báo chí chính thức ở Việt Nam cũng đã nhiều lần đưa tin
các vụ án oan, chẳng hạn vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, cuối cùng nhờ
thủ phạm ra đầu thú mới được trả tự do.
Có bao nhiêu tử tội thật ra không phải là thủ phạm, hiện đang bị
giam cầm và chờ ngày lãnh án tử hình ?
Có ý kiến cho rằng Việt Nam nên bỏ án
tử, với tình trạng bức cung, hay thiếu trách nhiệm trong điều tra, những thẩm
phán ngần ngại không muốn sửa án…không phải là hiếm hoi như hiện nay. Và cũng
có những ý kiến cho là tuy chưa thể đòi hỏi một nền tư pháp độc lập trong chế
độ độc đảng như hiện nay, cần phải có những cải cách về tư pháp và chế độ giam
giữ, để hạn chế bớt những bản án oan khuất đối với người vô tội.
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching