Từng
bước nhỏ thay vì những tuyên bố vĩ đại: Bài học về thống nhất-tự do-dân
chủ
Vượt biên đường
bộ - cuộc trốn chạy bằng chân - 30/4/1975
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Thục Quyên
Dù Cộng hòa Liên bang
Đức là một nước giàu mạnh, dẫn đầu trong khối Âu châu và thế lực trong thế
giới, lễ kỷ niệm 25 năm “Bức tường Ô nhục Berlin sụp đổ
“(13/08/1961-09/11/1989) đã không chú trọng biểu dương lực lượng quân sự hay
sức mạnh tài chính. Mọi cố gắng tổ chức là để nêu cao giá trị tình người, sự
gắn bó dân tộc, sức mạnh văn hóa và chiến thắng của tinh thần bất bạo động.
Cuộc thăm dò ý kiến
trong những năm qua tại Đức cho thấy 70% dân chúng đánh giá cuộc thống nhất đất
nước họ từ tốt tới rất tốt, và bằng lòng với tình hình chính trị, xã hội cũng
như kinh tế hiện tại . Ngay 30% còn lại, với những chỉ trích nặng nhẹ, cũng dứt
khóat không muốn trở lại tình trạng 25 năm trước.
Câu nói của cố Tổng
thống Mỹ J.F.Kennedy ngày 26/06/1963 khi đứng trước Bức Tường trong cuộc viếng
thăm Berlin của ông đã nói lên một sự thật đơn giản :
Tự do có nhiều khó
khăn, và dân chủ không phải là tuyệt hảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ phải
dựng lên một bức tường để giữ lại những người dân của chúng tôi – để ngăn cản
họ rời bỏ chúng tôi.
“Freedom has many
difficulties and democracy is not perfect. But we have never had to put a wall
up to keep our people in — to prevent them from leaving us”.
Cùng với dân tộc Đức,
cả thế giới đã xúc động cực độ khi sự sụp đổ “Bức tường ô nhục Berlin” đến như
với một phép lạ: Ngoạn mục. Bất thần. Nhanh chóng. Không đổ một giọt máu.
Nhưng không một người
Đức nào cho tới ngày nay, kể cả các chính trị gia và các nhà tranh đấu dân chủ,
tuyên bố là mình đã biết trước thời điểm hay cách thức xảy ra. Mọi người đều
đồng ý ,con đường đưa tới Tự Do và Thống Nhất đã rất dài, khó khăn, và chỉ có
thể đạt được với chủ lực đóng góp và hy sinh của dân chúng cả hai miền Đông và
Tây trong ý nguyện rõ ràng :
Chúng
ta là nhân dân. Chúng ta là một dân tộc. (Wir sind das Volk. Wir sind ein Volk).
Chính phủ và nhân dân
Đức cho tới nay luôn luôn khiêm nhường và nhớ ơn sự tiếp tay của những nước
bạn.
Vào thời điểm cuối năm
1988, sự độc quyền của các đảng cộng sản được sự hỗ trợ Liên bang Xô viết
trong mấy chục năm đang trên đường tan rã. Một nhân tố quan trọng là vị Tổng
thống Liên Xô đương nhiệm Mikkhail Gorbachov, đứng trước những thất bại và nguy
cơ tan rã của các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa, đã sáng suốt bác bỏ chủ
thuyết Brezhnev. Theo đó Moscow có thể dùng vũ lực can thiệp nếu bất cứ nước
nào tìm cách tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết (như đã từng xảy ra năm 1956
tại Hungary, và năm 1968 tại Tiệp Khắc).Từ đó các diễn biến dân chủ ở Đông Âu
và nhất là ở Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.
Phát biểu trước đài
tưởng niệm các nạn nhân của Bức Tường Berlin sáng ngày 9/11/2014, Thủ tướng Đức
Angela Merkel tuyên bố:
“Thông điệp của Bức
Tường Berlin là chúng ta có khả năng để xây dựng, chúng ta có thể chuyển đổi để
sự việc trở nên tốt đẹp hơn, một thông điệp cho chúng ta ở Đức cũng
như cho những người khác ở châu Âu và thế giới. Và trong tình hình ngày hôm nay
, càng đặc biệt cho những người ở Ukraine, Syria, Iraq và trong nhiều, rất
nhiều vùng khác trên thế giới, nơi mà tự do và nhân quyền đang bị đe dọa
hoặc thậm chí chà đạp.
Wir haben die Kraft zu
gestalten. Wir können Dinge zum Guten wenden. Das ist die Botschaft des
Mauerfalls – sie richtet sich an uns in Deutschland ebenso wie an andere in
Europa und der Welt, in diesen Tagen ganz besonders an die Menschen in der Ukraine,
in Syrien, im Irak und in vielen, vielen anderen Regionen unserer Welt, in
denen Freiheits- und Menschenrechte bedroht oder gar mit Füßen getreten werden.
Bối
cảnh: quỵ ngã và điêu tàn
Sự thành hình của “hai
nước Đức” bắt nguồn từ sự qụy ngã sau thế chiến thứ Hai (1939-1945) của Âu
Châu, với hơn 49 triệu người thiệt mạng, các thành phố lớn bị tàn phá nặng nề,
các khu công nghiệp hủy hại. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người
vô gia cư.
Riêng nước Đức, sau
khi Berlin thất thủ và Hitler tự tử, chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ từ Na Uy
phía Bắc cho đến phần trên của Ý, và sau ngày 09/05/1945 khi các lực
lượng Đức cuối cùng đầu hàng vô điều kiện, đã bị các lực lượng Mỹ, Anh, Liên Xô
và Pháp chiếm đóng. Ngoài ra Đức còn bị buộc phải phi quân sự hóa, phi phát xít
hóa, và bị tịch thu tài sản để bồi thường chiến tranh.
Ngay sau đó, chính
liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt vì xung đột ý thức hệ. Tại châu Âu, mỗi phía
liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía Tây, các nước Mỹ, Anh và
Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) . Về phía đông, Liên Xô lập
ra liên minh với các nước Đông Âu khác với Hiệp ước Warsaw. Các nước phụ thuộc
Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng chính trị thông qua viện trợ kinh tế theo kế hoạch
Marshall, trong khi các nước kia trở thành các nước cộng sản phụ thuộc Liên Xô.
Năm 1949, với sự gia
tăng căng thẳng của Chiến tranh Lạnh, nước Đức đã tách đôi trên cơ sở các vùng
kiểm soát của Đồng Minh phương Tây và Liên Xô thành Cộng hoà Liên bang Đức
(Tây Đức) và Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức).
Để ngăn chận làn sóng
người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều, bắt đầu từ năm 1952, biên
giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng.
Tuy nhiên ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin
lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một
lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin.
Từ 1949 đến 1961
khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn
47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Vì
những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di
dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự
tồn tại của “quốc gia” này.
Đêm
12 rạng sáng ngày 13/08/1961 phía Đông Đức
bắt đầu cho phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. Quân đội Xô
Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới
của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin
đều bị gián đoạn.
Erich Honecker, sau
này trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, lúc đó với cương vị là bí thư trung
ương Đảng về an ninh đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng Cộng sản, chịu trách nhiệm
chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. Cho đến tháng 9
năm 1961, ngay trong lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây
Berlin.
Bài
học từ bạn và thù
Trước mắt người dân
Đức và thế giới, bức tường Berlin xây bằng bê tông, gạch và giây kẽm gai đã cụ
thể hóa Bức Màn Sắt trừu tượng. Dân chúng thành phố Berlin đã ngay tức khắc
phản ứng mãnh liệt với bức tường được chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là
“Tường thành bảo vệ chống phát xít” và ngược lại đối với Cộng Hoà Liên
Bang Đức là một “Bức tường Ô nhục”.
Suốt ngày 13/08/1961
và những ngày nối tiếp, khắp Đông Berlin đã có nhiều cuộc biểu tình vài trăm
người tự phát. Cảnh sát Nhân dân giải tán những người biểu tình bằng hơi cay,
vòi rồng và dùi cui. Lác đác có những cuộc đình công nhỏ. Ngày 16/08, gần
300.000 người phía Tây Đức cùng với thị trưởng Willy Brandt tập trung trước tòa
thị chính Schöneberg ở phía tây của thành phố, kêu gọi phản ứng mạnh mẽ của các
cường quốc phương Tây và sự bảo đảm tự do cho Tây Bá Linh.
Nhưng
các cường quốc phương Tây phản ứng rất chậm và dè dặt.
Bức tường Berlin đánh
dấu sự thất bại kép của
chính sách nước Đức trong thời gian đó.
Phía Cộng hòa Dân chủ (Đông Đức) đã thất bại trong nổ lực thiết lập một nước theo chủ nghĩa xã hội được dân chấp thuận, để đối ngược với chủ nghĩa tư bản Tây phương. Hàng triệu người, trong đó có nhiều lao động trẻ và có kỹ năng, đã rời bỏ Đông Đức để qua phía Cộng hòa Liên bang, gây một tình trạng xuất huyết trầm trọng.
Phía Cộng hòa Dân chủ (Đông Đức) đã thất bại trong nổ lực thiết lập một nước theo chủ nghĩa xã hội được dân chấp thuận, để đối ngược với chủ nghĩa tư bản Tây phương. Hàng triệu người, trong đó có nhiều lao động trẻ và có kỹ năng, đã rời bỏ Đông Đức để qua phía Cộng hòa Liên bang, gây một tình trạng xuất huyết trầm trọng.
Nhưng Bức Tường cũng
cho thấy nổ lực của Chính phủ Cộng hoà Liên bang (Tây Đức) dựa vào các
cường quốc Tây phương mong dùng chính sách “sức mạnh” để ép Liên Xô lui, hòng
đạt được thống nhất nước Đức, cũng thất bại. Mỹ đã không can thiệp quân sự khi
bức tường Berlin được xây dưới sự bảo vệ của Liên Xô. Họ tôn trọng những lĩnh
vực mà Liên Xô đã đặt ảnh hưởng, như đã từng không phản ứng nhân dịp cuộc nổi
dậy và bị Hồng quân đàn áp ngày 17/06/1953 tại Đông Đức và cuộc cách mạng năm
1956 tại Hungary.
Việc
phát hiện rằng không có cách ngắn hạn nào để thống nhất nước Đức, và ngay cả sự
liên lạc tình cảm thiêng liêng giữa người dân hai miền còn mắc nguy cơ bị gián
đọan nói chi là sự thống nhất kinh tế hay chính trị , đã đưa tớimột làn
sóng xét lại cách suy nghĩ cũng như đường lối chính trị tại Cộng hoà Liên
bang Đức.
Willy
Brandt và cú sốc thực tế
Đêm 12 rạng sáng ngày
13/08/1961 khi được tin Berlin bị chia cắt , thị trưởng đương nhiệm Willy
Brandt đã tức tốc bỏ dở cuộc vận động đang tới cao điểm tranh cử chức thủ tướng
Cộng hoà Liên bang Đức để trở về Berlin dầu sôi lửa bỏng, chung vai sát cánh
với người dân của mình. Vừa tới nơi, ông đã dứt khóat tuyên bố đường hướng đấu
tranh tại buổi họp đặc biệt của Quốc hội:
Một phe đảng tự gọi là
chính phủ mà ra sức để bỏ tù người dân của mình: Trụ bê tông, dây thép gai,
vùngđất chết, tháp canh và súng máy, đó là những đặc thù của một trại tập
trung.
Nhưng chúng sẽ không
tồn tại.
Trong tương lai, chúng
ta sẽ đưa thêm nhiều người từ khắp thế giới đến Berlin, nhiều hơn chúng ta đã
làm trong qúa khứ, để họ có thể nhìn thấy thực tế trần truồng, lạnh
lùng và tàn bạo của cái hệ thống đã hứa hẹn một thiên đường trên trái
đất. […]
Eine Clique, die sich
Regierung nennt, muß versuchen, ihre eigene Bevölkerung einzusperren. Die
Betonpfeiler, der Stacheldraht, die Todesstreifen, die Wachtürme und die
Maschinenpistolen, das sind die Kennzeichen eines Konzentrationslagers. Es wird
keinen Bestand haben. Wir werden in Zukunft noch sehr viel mehr Menschen als
früher nach Berlin bringen, aus allen Teilen der Welt, damit sie die kalte, die
nackte, die brutale Wirklichkeit eines Systems sehen können, das den Menschen
das Paradies auf Erden versprochen hat. […]
Trong suốt tháng
8/1961, tương ứng với những cảm xúc của người dân Berlin, Willy Brandt đã bước
ra khỏi thế đứng chính trị đảng phái của mình để mang một vai trò phi đảng phái
và hoàn toàn có tính cách dân tộc. Ông trực tiếp nhắc nhở các cường quốc phương
Tây giữ vững lời cam kết bảo vệ nền Tự do của Tây Bá Linh, kêu gọi Mỹ có phản
ứng mạnh mẽ với Liên Xô, đồng thời tìm cách hướng dẫn người dân Berlin giữ bình
tĩnh, tránh tạo dịp cho Đông Đức và Liên Xô gây ra một cuộc tàn sát đẫm máu.
Tuy nhiên, những cố
gắng của ông lúc đó đã không thành công hoàn toàn như ý muốn: Chính phủ Mỹ đã
từ chối lời đề nghị và yêu cầu trợ giúp của ông; Tổng thống J.F.Kennedy
sau nhiều ngày tránh né không lên tiếng, đã viết thư khuyên Brandt từ bỏ hy
vọng về một đất nước được thống nhất nhanh chóng, và phải chấp nhận thực
tế.
Với Bức tường Berlin,
sự tách đôi Đông và Tây Đức đã được “bê tông hóa” theo đúng nghĩa đen. Hy vọng
cuối cùng của Willy Brandt dựa vào Berlin để ngăn chận sự phân chia nước Đức đã
một sớm một chiều chỉ là ảo tưởng. Trong tức tưởi ông phải đối diện với một bên
là tấn công vũ bão của kẻ thù, bên kia là sự tháo lui của đồng minh, chung
quanh là sự nghi ngờ thù hằn của những nước láng giềng đã một thời bị đàn áp
xâm chiếm bởi Đức Quốc Xã, và ngặt nghèo hơn cả là sự mâu thuẫn thế hệ trong
toàn quốc: thế hệ sau thế chiến lên tiếng buộc tội gắt gao thế hệ cha ông mình
đã vì lý do này hay lý do khác tiếp tay với độc tài gây ra cuộc thảm sát người
DoThái và thế chiến thứ 2 nên mới đẩy dân tộc rơi vào tình trạng kiệt quệ, chia
cắt bởi các thế lực Đông-Tây: Tại
sao qúi vị có thể để những điều đó (bắt bớ và tàn sát) xảy ra cho người Do
Thái? Tại sao cha mẹ lại tham dự trong đoàn thanh niên Hitler? Tại sao lại chấp
nhận và tự nguyện tham dự chiến tranh? Từ 1945, sau khi thua trận, qúi vị có
xét lại mình hay không?
Đảng Quốc Xã và Lãnh tụ của nó (Hitler) không bao
giờ có thể tung tác được nếu không có sự im lặng đồng ý và sự vô tâm bất
động của đại đa số công dân Đức. Mọi người đều có trách nhiệm!
Willy
Brandt: “Cách tốt nhất để dự đoán tương lai là tạo ra nó”
Nhưng chính hoàn cảnh
khắc nghiệt cũng là dịp để người anh hùng nổi trội khỏi đám đông.
Bị dồn vào thế
bí,Willy Brandt đã chứng tỏ khả năng vượt khỏi khuôn khổ những lối suy nghĩ và
hành động thông thường, lội ngược dòng những xu hướng chính trị để tìm cách
xoay chuyển thời thế.
Cái chết thảm thương
của một thanh niên 18 tuổi bị lính canh Đông Đức bắn và bỏ mặc nằm vướng trong
dây kẽm gai chảy máu cho tới chết ở chân bức tường Berlin ngày 17/08/1962 là
tác động khơi mào cho “Chính sách phương Đông” của Brandt, đưa tới ký kết những
hiệp ước rất quan trọng giữa Cộng Hoà Liên bang Đức với các nước Đông Âu láng
giềng và Liên Xô, để giảm bớt sự căng thẳng của Chiến tranh Lạnh với thế giới
cộng sản, khiến Đông Đức không thể đơn độc cưỡng lại việc ngồi vào bàn hội
nghị.Vì mục tiêu cuối cùng của “Chính sách phương Đông” chính là để tạo lợi thế
đưa đến vô hiệu hóa cái Brandt gọi là “bức tường vô nhân đạo” chia đôi dân tộc
Đức.
Biết
không thể phá bỏ bức tường này bằng những lời tuyên bố vĩ đại, bằng nguyền rủa
hay bằng bom đạn, Willy Brandt đã sáng chế một giải pháp cực kỳ tinh tế là đi
từng bước nhỏ, tạo sự liên hệ và tiếp xúc văn hóa cũng như kinh tế cho dân
chúng hai bên để chính sức mạnh đoàn kết của họ đục thủng dần bức tường ngăn
cách kiên cố.
Tháng 12/1972 một
hiệp ước ký kết giữa Tây và Đông Đức chấp nhận Đông Đức là một lãnh thổ độc lập
và có chủ quyền (nhưng chỉ có một quốc tịch Đức duy nhất). Đổi lại, người dân
Tây Đức được thăm viếng, xum họp với gia đình bên Đông Đức. Chính sự gặp gỡ,
trao đổi tin tức và những giúp đỡ tài chính họ mang cho thân nhân đã đánh thức
sự so sánh giữa cuộc sống tại hai phần đất nước và gây ý thức về Tự do Dân chủ
nơi người dân Đông Đức.
Cùng với Egon Bahr ,
Willy Brandt gọi ý tưởng cách mạng của mình là “Đổi thay bằng cách xích lại
gần”, dùng sự cảm thông và liên hệ giữa con người với con người để phá vỡ ngục
tù ý thức hệ. Tuy được giới trẻ và số đông ủng hộ nhưng cũng không thiếu những
chông gai đến với ông từ không những nhà cầm quyền CS Đông Đức mà Willy Brandt
còn chịu sự chống phá quyết liệt của những thành phần bảo thủ Tây Đức, ngay cả
trong đảng Xã hội (SPD) của ông, buộc tội ông “cấu kết với cộng sản”. Sự chống
phá đôi khi gồm cả những thủ thuật ty tiện như vu cáo, bôi nhọ thanh danh, cuối
cùng cũng đã đẩy ông đến bước phải từ chức Thủ tướng năm 1974 nhưng trong lòng
người dân ông đã mãi mãi giữ chỗ đứng của một “Thủ tướng của trái tim” (Kanzler
der Herzen).
Lấy
can đảm “dứt khoát nhận lãnh trách nhiệm tội ác chiến tranh” làm nền tảng
xây dựng tương lai
Mặc dù nước Đức đã
phải trả một cái giá rất đắt sau chiến tranh nhưng đối với thế giới điều này
không chứng tỏ dân tộc Đức đã thực tình nhìn nhận lỗi lầm liên đới với Đức Quốc
Xã mà có thể chỉ vì bị thua trận. Phải tới khi vị thủ tướng Đức Willy Brand qùy
xuống trước đài tưởng niệm người Do Thái ở Warsaw ngày 7/12/1970 trong chuyến
thăm Ba Lan của ông, những vết thương của các nạn nhân chiến tranh mới được
phần nào xoa dịu. Một cử chỉ can đảm cho thấy tầm vóc lớn của con người Willy
Brandt, làm cả thế giới khâm phục. Đó cũng là dấu hiệu chân thành thiết yếu để
thế giới khôi phục lại lòng tin tưởng vào dân tộc Đức. Tháng 12 năm 1971 Willy
Brandt nhận giải Nobel Hoà Bình.
Lời
cuối cho Việt Nam
Trong bài phát biểu
nhận giải thưởng Nobel Willy Brandt nhấn mạnh: “nói chuyện Hoà Bình không đủ,
chúng ta phải xây dựng Hoà Bình bằng hành động”. Và ông đã chấm dứt bài, nhắc
đến dân tộc Việt Nam và những nước nhược tiểu khác:
Tôi không thể ngưng
nhắc nhở qúi vị và chính bản thân tôi cần phải nhớ đến những con người còn đang
sống lầm than trong chiến tranh ngay trong giờ phút này, đặc biệt là trong
tiểu lục địa Ấn Độ và Việt Nam. Cũng như ở Trung Đông và các khu vực khủng
hoảng khác. Tôi không muốn ồn ào kêu gọi, vì đòi hỏi người khác phải giữ
chừng mực, biết điều và khiêm tốn thì rất dễ. Tôi chỉ gởi lời cầu mong từ trái
tim tôi tới tất cả những người đang có thế lực trong tay để gây chiến tranh, hãy
nhường bước cho lẽ phải và gìn giữ Hoà Bình.
Aber ich kann nicht
aufhören, ohne Sie und mich an die zu erinnern, die in diesem Augenblick im
Krieg leben und leiden, vor allem auf dem indischen Subkontinent und in
Vietnam. Ich beziehe die Menschen im Nahen Osten und in anderen Krisengebieten
mit ein. Mir ist nicht nach dem lauten Appell zumute. Es ist leicht, von
anderen Maß, Vernunft, Bescheidung zu fordern. Aber diese Bitte kommt mir aus
dem Herzen: Alle, die Macht haben, Krieg zu führen, möchten der Vernunft
mächtig sein und Frieden halten.
Dân
tộc Việt Nam đã được gì sau gần 40 năm thống nhất và không chiến tranh?
Nhìn sức mạnh xã hội,
kinh tế của nước Đức, xuất phát từ một nền tảng chính trị TỰ DO DÂN CHỦ nhân
bản và đứng đắn, người Việt chúng ta thay vì chỉ sôi sục niềm ao ước có lẽ nên
nhập tâm khẩu hiệu “Can đảm đòi Dân chủ” của Willy Brandt làm ngọn lửa soi sáng
cho mọi hoạt động của mình. Và xây dựng sự cảm thông, liên hệ giữa con người
với con người để phá vỡ ngục tù ý thức hệ bằng cách mỗi người trong chúng ta tự
quỳ xuống trước tổ tiên và dân tộc, thẳng thắn can đảm nhận lãnh trách nhiệm đã
nhầm lẫn trong qúa khứ của chính bản thân mình.
T.Q.
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching