Mạnh Dạn Đòi Quyền Người Dân để Lật Đổ Bạo
Quyền
Phan Văn Song, TS
October 2, 2014
October 2, 2014
Đèn Cù và Nhơn Quyền, Thực tế và Ảo tưởng (2 kỳ): Đừng
Để Ánh Sáng Ảo Của «Đèn Cù» Che Quyền Người Dân Lật Đổ Bạo
Quyền?
Bài 2-B: Mạnh Dạn Đòi
Quyền Người Dân để Lật Đổ Bạo Quyền
Tuần trước, chúng tôi mượn sách Đèn Cù của Trần Đĩnh để nói
đến cái hiện tượng đấu tranh chống Cộng, chống Bạo quyền bằng gởi gắm, xin cho (xin cho qua những kiến nghị, kêu gọi, thư gởi…cho nhà cầm
quyền, cho Đảng cầm quyền) và đau thương hơn nữa là hiện tượng bán cái…Bán cái cho các Tôn giáo, các vị lãnh đạo tinh thần, bán cái
cho dư luận Mỹ, công luận Mỹ đòi Quốc hội Mỹ trừng phạt Việt Nam, ghi Việt Nam
vào bảng phong thần các nước bê bối thiếu tự do …Bán cái cho Quốc tế
trừng phạt.
Nói tóm dân ta không dám tự cởi trói, tự giải phóng ,tự làm
một mình, chỉ đi nhờ cậy…Và nay, qau Trần Đĩnh, các nhà bình luận sách ồn
ào « phấn khởi, hồ hởi »-đành phải xài từCộng
sản vậy !- kẻ khen hay quá hay nói toàn sự thật, và người nói theo Bùi
Tín trên đài BBC, bảo đậy là quả bom ! Tầm bậy ! Bom cho ai ?
Chỉ cho các Bùi Tín, cho các Trần Đĩnh và cho các đảng viên Cộng sản, chứ
với chúng tôi người việt nạn nhơn Cộng sản ở Hải ngoại hay ở quốc nội đều biết
rõ Sự Thật !
Với 20 năm cha chú chúng tôi đánh nhau với Cộng
sản với Việt Cộng vì đã biết Sự Thật rồi, với 1 triệu người di cư vào Nam năm
1954 cũng vi họ đã biết Sự Thật rồi. Ngày nay các con cháu, các
hậu duệ của những người đã đánh Cộng, đã thoát Cộng, đã trốn Cộng, kẻ
thoát được (gần 3 triệu người) người nạn nhơn tù đày, chết trên rừng núi,
chết ngoài biển cả (trại tù, vượt ngục, vượt biên, vượt biển), kẻ tiếp
tục tù Cộng, tù lớn tù nhỏ, người nô lệ Cộng, trai bán sức, gái bán trôn
cho ngoại nhơn… Chúng tôi đám con cháu, chúng tôi đã biết cả chẳng những Sự
Thật mà còn cả Mặt Thật của Công sản.
Vì vậy chúng tôi hôm nay xin bày tỏ chia sẻ cùng tất cả bà
con rằng chỉ có nổi dậy lật đổ Bạo quyền là con đường duy nhứt là chánh nghĩa
vì đó cũng là một Nhơn quyền.
I. Nhơn quyền trong tiến trình văn minh nhơn loại
Ngày nay ai cũng biết nhơn quyền là điểm hẹn của văn minh
nhơn loại vào đầu thế kỷ XXI. Nhưng nhơn quyền là gì? lại thường thường không
được định nghĩa rõ rệt để có thể tránh những ngộ nhận hoặc những lạm dụng cho
hậu ý chánh trị bất chánh. Nhà cầm quyền cộng sản Hà nội luôn luôn đưa ra
luận điệu theo đó nhơn quyền là một khái niệm của tây phương, đặc biệt là
của giai cấp tư sản, chớ không phải của Việt Nam. Sự thực, ngày nay, nhơn quyền
là một ý niệm chung của người tiến bộ. Theo ý niệm nầy, nhơn quyền là những
đặc quyền của con người được pháp luật qui định và do pháp luật chi phối, nhằm
bảo vệ con người trong đời sống xã hội, giữa con người với con người và trong
mối quan hệ giữa người dân với nhà cầm quyền. Nhơn quyền là nguồn gốc thực tế
của sự tự do của con người.
Sự tự do này đã được thể hiện thành nhiều quyền
tự do cụ thể, có tiêu chuẩn rõ rệt được pháp luật bảo vệ. Trong số những quyền
tự do ấy, có những thứ phải coi đó là cơ bản, không thể bị tiêu diệt, không
thể chuyển nhượng, không ai, kể cả nhà câm quyền có thể xâm phạm tước đoạt.
Tưởng cũng nên nói rõ, những đặc quyền ấy là những quyền tối thiểu của con
người, không thể thiếu, bởi nếu không còn những quyền nầy thì con người sẽ mất
hết phẩm gía, bị hạ xuống hàng súc vật.
Ở tây phương, cố hương của nhơn quyền phải nói là Hi-lạp và
La-mã. Tuổi thọ của nhơn quyền có lẽ đã đến 2000 năm hơn. Nhờ bởi nền dân chủ
La-Hi mà nhơn quyền, qua thời gian, đã có được những bước tiến mạnh mẽ, bắt đầu
bằng sự khẳng định “quyền làm con người” ( le droit d’être un homme) bao
gồm những quyền tự nhiên không thể chuyển nhượng , không thể tiêu diệt. Sau đó
đế quốc la mã sụp đỗ, mãi đến thế kỷ thứ XIII nhơn quyền ở tây phương chợt như
bừng tỉnh, sau một giấc ngủ dài trong bóng đêm trung cỗ, nhờ sự ra đời
của bản Đại Hiến Chương nhằm giới hạn bớt quyền hành của nhà vua Anh.
Từ đắy,
nhơn quyền bước được những bước dài vững chắc qua bản Thỉnh Nguyện Thư Dân
Quyền 1628, Luật Bảo Thân ( Habéas Corpus) 1679, Điều lệ Dân Quyền 1689 của
nước Anh, Tuyên Ngôn Độc Lập Huê Kỳ 1776, rồi Tuyên Ngôn Nhơn Quyền và Công Dân
Quyền 1789 của Pháp..
Hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp bùng nổ vào thế kỷ XVlll đã
phục hồi địa vị con người cho chính con người và đối với những kẻ cầm quyền của
các chế độ chuyên chế. Từ đây, nhơn quyền đã định hình với những chìu kích rõ
nét. Qua hậu bán thế kỷ qua thì nhơn quyền đạt được những bước nhảy vọt chưa
từng thấy ở thời gian trước kia.
Về bản chất, vào thuở ban sơ, nhơn quyền tuy được hiểu là
quyền tự nhiên của con người nhưng vẵn còn bị qui chiếu vào thần quyền, theo sự
suy diển chủ quan của triết gia tây phương. Nhưng đến cuối thế kỷ XX thì những
giá trị này đã được định chế hoá nên đã trở thành những giá trị khách quan, để
không còn ai có thể ngang nhiên xâm phạm được nữa. Nhơn quyền đã trở
thành những giá trị phổ quát, không giành riêng để phục vụ một lớp người nào ở
một địa phương nào nữa.
Về mặt thực tế nhơn quyền từ nửa thế kỷ qua đã được áp dụng
chặc chẻ hơn để con nguời trên khắp thế giới không còn phân biệt đối xữ, bị
ngược đãi làm tổn thương đến mạng sống và nhơn phẩm. Các định chế quốc gia và
quốc tế đã hợp lực bảo vệ nhơn quyền, đồng thời còn thăng tiến đến mức hoàn
chỉnh hơn. Thật vậy, Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, Tuyên ngôn Quốc tế Nhơn
Quyền 1948, hai Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chánh trị, kinh tế xã
hội, văn hóa 1966 đã thật sự đưa từ ngữ Nhơn Quyền từ thế giới ngôn ngữ, tư
tưởng qua thực tế áp dụng cụ thể vào đời sống hằng ngày của con người trên hoàn
vũ. Song song với áp dụng những biện pháp chế tài để trừng
trị những vi phạm thô bạo nhơn quyền đã được tổ chức và thực thi mà những
cơ quan tư pháp hình sự quốc tế có thẩm quyền rộng lớn ra đời trong thập niên
90 vừa qua.
Trong những năm cuối thế kỷ, nhơn quyền khoác lên mình thêm
một đặc tính mới để thích ứng với sự chuyển biến của thế giới. Nhơn
quyền trở thành những cưởng chế được thực thi để nhân đạo hóa đời sống xã
hội ở khắp nơi, kể cả việc can thiệp trực tiếp vào chiến tranh, can thiệp trực
tiếp vào đời sống các quốc gia có đầy đủ chủ quyền nếu phải nhằm mục tiêu bảo
vệ quyền làm người ở đó. Ngày nay nhơn quyền đã làm thay đổi hoàn toàn
về quan niệm chủ quyền quốc gia và mối bang giao quốc tế. Giá trị
con người được thừa nhận là tối hậu và cao hơn mọi giá trị khác.
Phải chăng những bước tiến nhơn quyền đã thật sự khép lại
vĩnh viển một giai đoạn lịch sử dài mà suốt qua đó những chánh sách bạo
tàn của các vua chúa, của các chế độ phi nhơn quyền
như phát-xít, cộng sản đã giết hại hằng trăm triệu nhơn mạng?
Và một thời đại văn hoá nhơn quyền sẽ thật sự bắt đầu từ nay?
Thật tình, chúng ta có thể giữ cái nhìn lạc quan ấy nếu
Tàu, Bắc Hàn, Việt Nam và một số nước Hồi giáo cực đoan sẽ lần lượt sớm chuyển
hoá theo chánh trị dân chủ tự do.
II. Nhơn quyền ở Việt nam cho đến khi
người cộng sản tới
Việt Nam chắc chắn cũng phải có một lịch sử nhơn quyền lâu
đời. Nhưng không giống phương tây. Trong ngôn ngữ chánh trị Việt Nam trứơc đây
không có những từ ngữ như Nhơn Quyền, Dân Chủ. Mãi đến thế kỷ thứ XIV nhũng từ
ngữ này từ tây phương du nhập qua Nhựt bổn rồi vào Việt Nam.
Nói như thế không
có nghĩa là vào thời ấy ở Việt Nam người dân không được sống xứng đáng với địa
vị con người và những quyền lợi của mình đã không được chánh quyền tôn
trọng. Xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ đã được tổ chức theo cơ cấu nhà vua
ngự trị trên cao, còn thứ dân chiếm địa vị thấp nhứt.Mỗi người có riêng bổn
phận phải chu toàn. Vậy khi nhà vua làm tròn bổn
phận của nhà vua thì tự nhiên toàn dân hưởng được
những phúc lợi, đại để phù hợp với những điều mà ngày nay chúng
ta gọi là nhơn quyền.
Bổn phận của nhà vua còn
được gọi là thiên mệnh. Còn dân chúng là nền tảng xã hội, hay dân
bản. Khi nền tảng vững chắc thì quốc gia yên ổn, vững bền. Trong việc
thi hành trách nhiệm của thiên mệnh nhà vua bị Trời kiểm soát qua đời sống của
dân chúng. Bởi ý Dân là ý Trời. Nếu nhà vua không
làm tròn bổn phận của mình đối với dân, mà còn tàn bạo đối với dân chúng thì
lập tức, Trời sẽ theo ý dân mà thu hồi Thiên mênh. Trong suốt dòng
lịch sử Việt Nam, phần lớn các vua đêù cố gắng làm tròn bổn phận đối
với thần dân. Dưới những triều đại ấy, dân chúng hưởng được những phúc
lợi mà ngày nay ta gọi là nhơn quyền.
Nhơn quyền dưới thời quân chủ cực thịnh ở Việt Nam còn được
nới rộng đến quyền chánh trị. Người dân nhờ tài đức đêù có thể tham
gia chánh quyềnqua các cuộc thi tuyển thường được tổ chức
rất công bình. Chỉ có ngôi vua mới truyền lại trong phạm vi hoàng tộc mà thôi.
Từ thời nhà Lý, vào thế kỷ thứ XI, Việt Nam đã mở ra những
khoa thi để chọn người tài ra giúp nước. Ngoài ra các chế độ quân chủ ở Việt
Nam thời xưa, chẳng những cho phép, mà còn khuyến khích mọi người hãy
bày tỏ quan điểm chánh trị của mình. Quan chức và dân chúng có quyền
dâng sớ phê phán triều đình hoặc bày tỏ nguyện vọng của mình. Cho đến
gần đây, vua Minh Mạng nhiều lần nói với các quan rằng việc nước quá nhiều mà
sự hiểu biết của một người thì quá giới hạn. Bởi vậy, chúng ta cần biết ý kiến
của nhiều người để có cái nhìn đúng và có giải pháp thích nghi.
Đối với tù binh, các vua Lê Thái Tổ và Quang Trung cung cấp
lương thực , phương tiện và cho phép chúng trở về Tàu an toàn. Vua Quang Trung
còn cho lập đàn trai giải oan cho quân Thanh tử trận.
Về mặt luật pháp, các chế độ quân chủ ở Việt Nam thời xưa
đêù quan tâm đến việc bảo đảm cho dân chúng có một xã hội công bằng, lấy đạo
đức làm nền tảng. Hai bộ luật còn được xử dụng cho đến thập niên 70, với
những cải tiến, đó là “Quốc Triều Hình Luật” và “Hoàng Việt luật lệ” Hai bộ
luật này phạt rất nặng, có khi tử hình, những tội phạm quan chức
sách nhiễu, tham nhũng, hối mại quyền thế qua trung gian vợ con,
người thân trong họ hoặc gia nhơn.
Án tử hình thường phải do nhà vua quyết định
cuối cùng. Hai bộ luật nầy đêù rất tôn trọng nữ quyền. Hình phạt dành cho phụ
nữ luôn luôn nhẹ hơn. Trong gia đình, về quyền lợi, người phụ nữ có đầy đủ
quyền lợi như người đàn ông. Quốc Triều Hiònh Luật qui định rõ thời hạn các vụ
án phải được kết thúc nhanh để tránh mất thì giờ của đôi bên. Điều này được xem
là rất tiến bộ so với một số quốc gia phương tây ngày nay.
Về kinh tế xã hội, chế độ quân chủ Việt Nam
quan tâm bảo đảm cho mỗi người dân có được một đời sống tối thiểu bằng
cách cấp phát cho mỗi người một phần đất để tự mưu sanh. Từ thời nhà Lê, vua
Lê Thái Tổ đã thực hiện chánh sách cải cách ruộng đất, trưng thu ruộng đất
của các triều đại trước, của những quan chức làm giàu bất chánh, của những
người không có thừa kế để cấp phát đồng đêù cho dân chúng canh tác. Việc cấp
phát này được xét lại mỗi bốn năm. Về sau, việc xét lại theo mười năm một lần.
Qua thời nhà Nguyễn, nhờ mở mang trong Nam, nên việc cấp
phát ruộng đất được rộng rải hơn, và giao cho địa phương đảm trách. Nhà
Nguyễn còn nghiên cứu trưng tập các tư điền của nhà giàu lớn, lấy 3/10 diện
tích để xung vào công điền cấp phát cho cô nhi quả phụ thương phế binh.Dưới
thời quân chủ cực thịnh ở Việt Nam, người dân tương đối đêù được hưởng
khá đày đủ các quyền lợi mà ngày nay chúng ta gọi là Nhơn Quyền.
III. Nhơn quyền theo người mác-xít
Nền tảng chủ nghĩa mác-lê là vật chất và biện chứng. Theo
quan niệm duy vật, người mác-xít chối bỏ mọi giá trị tinh thần như luân lý, đạo
đức. Theo biện chứng, người cộng sản không cho có những giá trị vĩnh viển.
Theo quan niệm căn bản ấy người cộng sản mác-lê từ khước những quyền
tự nhiên bất khả nhượng của con người như quyền sống, quyền tư hữu,quyền
tự do. Theo người cộng sản, nhơn quyền chỉ là phản ánh những quyền lợi về
kinh tế. Đó là những quyền lực của giai cấp thống trị.
Từ quan niệm này, người cộng sản phê bình bản Tuyên ngôn
nhơn quyền và dân quyền 1789 của Pháp cho đó là thành quả thắng lợi của giai
cấp tư sản đối với giai cấp quí tộc, là vũ khí để bảo vệ quyền lợi
và uy quyền của họ mà thôi. Nhơn quyền theo đó chỉ dành cho những người có của,
có tiền.
Đối với những người nghèo khó, nhơn quyền không có lợi gì
hết. Đi xa hơn nữa trong lý luận, người cộng sản cho rằng những quyền tự do
cũng chỉ là thứ tự do hình thức, hoàn toàn không chứa đựng một “nội dung thực
tế, cụ thể”
Đối với người cộng sản, nhơn quyền có ý nghĩa thực tế chỉ
trong một xã hội không giai cấp và không có chiếm hữu những phương tiện sản
xuất. Nên chỉ có chế độ cộng sản mới đem lại cho mọi người sự tự do thật sự,
nghĩa là sự tự do có nội dung cụ thể, chứ không phải thứ tự do hình thức.
Rõ hơn, chúng ta hãy đọc lại lời của Các Mác viết về nhơn
quyền : « Chúng ta hãy xem những thứ cho là nhơn quyền, trong nguyên
trạng, của những người đã khám phá ra nó; đó là những người Bắc Mỹ và Pháp.
Chúng ta sẽ nhận thấy ngay nhơn quyền, ngược lại với dân quyền, không gì khác
hơn là những quyền của một thành phần thuộc xã hội tư sản nghĩa là của con
người ích kỷ, của con người tách rời khỏi quần chúng. Quyền tự do của con người
không được thiết lập trên mối quan hệ giữa người với người, mà trái lại, trên
sự tách rời giữa người với người. Đúng hơn nhơn quyền như vậy chỉ là quyền chia
cách giữa con người với nhau. »
Người cộng sản gọi nhơn quyền, những giá trị phổ quát
như chúng ta quan niệm, chỉ là những thứ quyền được ” cho là” “gọi
là”, chứ không phải là những thứ quyền có thật, được định chế hóa bằng luật
pháp. Nên nói chuyện về nhơn quyền vối người cộng sản không thể được. Thế mà
người cộng sản khi tranh đấu nhằm cướp chánh quyền, trong một chế
độ tự do, dân chủ, lại hành sử những thứ quyền mà họ cho là không tưởng, không
có thực ấy.
IV. Nhơn quyền và quyền nổi dậy lật đổ
bạo quyền
Ngày nay, mọi cá nhơn trong xã hội đêù được hưởng những
quyền lợi và những quyền lợi này được luật pháp bảo vệ. Nếu luật pháp không bảo
vệ thì những quyền này sẽ không thể tồn tại. Nhưng trong truyền thống văn hóa,
lại có những quyền mà phàm con người là được hưởng thụ như chính sở hữu của
mình. Đó là những quyền tự nhiên . Những quyền này, là những quyền căn bản ,
nếu thiếu thì xã hội con người không thể vận hành được.
Thể chế
dân chủ chỉ có giá trị trong những giới hạn của quyền tự nhiên của con
người.
Nhưng để quyền tự nhiên được bảo đảm cao, phải cần mối quan
hệ với xã hội chánh trị, như sự tôn trọng luật pháp do xã hội chánh trị đặt ra.
Thế là mối quan hệ ấy, mặc nhiên trở thành một thứ “Khế ước” giữa người dân
và chánh quyền.
Từ đây, mỗi bên tự giác chấp nhận nhường một phần tự do
tuyệt đối của mình vốn có từ trước, nhưng lại được bảo đảm là những quyền tự
nhiên được thừa nhận và sự bảo đảm này không căn cứ trên quan hệ mạnh yếu.
Khế
ước quy định cho đôi bên những quyền lợi và những bổn phận tương
quan với nhau. Những cá nhơn bị bắt buộc phải tuân hành mệnh lệnh của
chánh quyền, nhưng lại được chánh quyền bảo vệ trong đời sống, bảo vệ sự tự do,
quyền tư hữu.. Còn chánh quyền, trong quan hệ hai chiều này, bắt buộc chỉ
hành động nhằm bảo đảm những quyền tự nhiên. Và khi hành động như vậy, chánh
quyền được dân chúng tôn trọng và bảo vệ.
Sự tương quan hài hòa này là
nền tảng ổn định xã hội. Nếu một bên không thi hành nghiêm túc bổn phận
của mình thì bên kia có quyền từ khước việc thi hành bổn phận của họ.
Nếu
chánh quyền trở thành hung bạo, độc đoán, thì người dân sẽ không còn nghĩa vụ
phải tuân phục chánh quyền nữa. Khế ước của hai bên vì thế sẽ lập tức
bị hủy bỏ. Dân chúng, trong trường hợp này, dĩ nhiên sẽ đùng trong thế đề
kháng chống lại chánh quyền để tự bảo vệ mình. Chánh quyền không còn tư cách
chánh quyền nữa. Sự chánh thống đã bị mất. Từ xưa nay, không có chánh
quyền nào là chánh quyền tự nhiên, mà chánh quyền đêù do khế ước, tức là mối
tương quan hai chiều ấy, mà thành hình. Dân chủ là vậy !
Locke khẳng định rằng một khi chánh quyền không thi hành
bổn phận của mình thì người dân có đầy đủ quyền hạn để từ khước thi hành
bổn phận của họ đối với chánh quyền ấy. Một dân tộc chịu áp bức, bạo ngược của
nhà cầm quyền có quyền nổi dậy chống lại, lật đổ chế độ.
Quyền nỗi dậy, chống lại áp bức của Nhà nước cho phép
người dân cả quyền sát hại những người cầm quyền.
Locke còn nhấn mạnh rằng không nên hỏi người dân có
quyền nổi dậy chống lại bạo quyền hay không, bởi vì chính bạo quyền đã
vi phạm tinh thần khế ước mà hai bên đã chấp thuận tuân thủ. Phản
ứng của người dân đối với bạo quyền như vậy là hoàn toàn chánh đáng. Phản ứng
này đã đưa vào hệ thống hóa quyền lực để trở thành một thứ quyền bất khả
nhượng, đó là quyền chống lại áp bức của nhà cầm quyền.
Việt Nam vì bị cai trị bởi một chế độ độc tài toàn trị nên
người dân khó có cơ hội hành sử quyền nổi dậy chống áp bức.
Tuy nhiên, ngày
nay, ở Việt Nam đang xuất hiện những cá nhơn, đoàn thể, và cả những
người cộng sản vì phản tỉnh về thân phận của mình và quyền lợi tối
thượng của đất nước, dân tộc, công khai lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền Hà nội
phải thực thi ngay dân chủ và tôn trọng nhơn quyền. Không ít người đã bị cầm
tù với những bản án nặng nề mà tội danh vẫn là ” âm mưu chống
lại nhà nước xã hội chủ nghĩa ” .
Thật hoàn toàn vô lý!
Bao nhiêu người khác đã chết oan ức trong tù, trong các
trại giam? Trước thực trạng bi thảm như vậy, khó có thể im lặng để chế độ Cộng
sản Hà nội tiếp tục kéo dài sự sống còn trên những quyền tự nhiên của con người
bị thường xuyên vi phạm một cách thô bạo.
Trước giờ, Hà nội vẫn viện dẫn sự ổn định chánh trị là cần
thiết để phát triển kinh tế, như lý do chánh đáng để trù dập những người
đòi hỏi nhơn quyền một cách ôn hòa. Ngày nay, chủ thuyết “dân chúng an ninh do quốc
gia ổn định” hoàn toàn không còn giá trị nữa.
Trái lại, sự an
ninh quốc gia phải được thiết lập trên sự an ninh của toàn
dân. Chính sự an ninh của toàn dân mới là điểm qui chiếu. Quan điểm
mới này đã làm thay đổi tiêu chuẩn chánh trị đối ngoại của thế giới
ngày nay, bởi nó không còn chấp nhận chủ quyền quốc gia như là
chuẩn mực của bang giao quốc tế.
Sự đề cao và bảo vệ an ninh người dân trước Nhà nước đem đến sự chấp nhận nguyên tắc sử dụng những biện pháp
cưởng bách, kể cả việc can thiệp bằng quân sự. Bởi bảo đảm an ninh
cho dân chúng chính là nhằm tăng cường sự ổn định và nền an ninh quốc
gia. Từ đó, sự an ninh của con người dần dần trở thành một thứ quyền cho các dân
tộc tự quyết định vận mệnh của mình. (cf Quốc tế bảo vệ nhơn dân Irak chống
Saddam Hussein, nhơn Lybie chống độc tài Khaddafi hay Syrie chống Bachar El
Assad…)
Sự chuyển mình của thế giới trong quan hệ nhơn quyền của
người dân và chủ quyền của Nhà nước đang đem lại một bối cảnh rất thuận lợi cho
công cuộc tranh đấu dân chủ và nhơn quyền ở Việt Nam.
Phong trào tranh đãu nhơn quyền ở Việt nam bắt đầu bằng các
tôn giáo. Hai tôn giáo ái quốc ở miền nam là Cao đài và Phật giáo Hòa Hảo bị
nhà cầm quyền Hà nội đàn áp ngay những ngày đầu mới vào tới miền nam. Họ có
chánh sách phải tiêu diệt triệt để hai tôn giáo này trong một thời hạn
nhứt định. Nhưng họ không thành công theo ý muốn. Sau cùng họ đã phâ nhân
nhượng ” tha làm phúc”.
Chánh sách dập tắc mọi chống đối, mọi đòi hỏi nhơn
quyền chẳng những không giảm mà còn gia tăng. Sự gia tăng dần dần làm bộc phát
thêm nhiều cá nhân từ nhiều nguồn gốc khác nhau xuất hiện. Phía tôn giáo, có
Phật giáo, Công giáo, Tin lành nhập cuộc…..Ở Hà nội, Huế, Đà lạt lần lượt xuất
hiện những nhà trí thức được đào tạo từ nhà trường xã hội chủ nghĩa. Họ can đảm
đứng lên thách thức với chế độ để đòi hỏi dân chủ và nhơn quyền. Họ thoạt đầu
còn là những cá nhơn đơn lẻ. Trong gần đây đã thấy có một số người công khai
tuyên bố thành lập tổ chức tranh đấu cho dân chủ.
Với cộng sản, khi phản kháng, tranh đấu thành đoàn thể sẽ
bị đàn áp, tiêu diệt ngay. Nếu không thể bắt giam hết tất cả những người tranh
đấu hiện nay ở khắp nơi thì tốt hơn hết là chánh quyền cộng sản nên chọn thái
độ khôn ngoan: thả ra về những người đang bị giam giữ từ trước
đến nay và thừanhận nơi họ tư cách đối thoại.
Những
thành phần nầy sẽ thành hình một giải pháp dân chủ. Họ sẽ là những lực
lưọng đối lập trong một tinh thần hiến định, trong một thể chế phảp trị, đồng
thời họ cũng sẽ là những lực lượng đối thoại để một chánh quyền
tương lai cùng với họ giữ ổn định xã hội, cải thiện tình trạng tồi tệ của
đất nước hiện nay. Dân chủ sẽ trở lại, nhơn quyền sẽ được tôn trọng, xã hội sẽ
được ổn định, kinh tế và tổ chức xã hội sẽ được phát triển.
Kết luận
Dân Chủ và Nhơn quyền hoàn toàn không ngăn cách, cô lập con
người với nhau như người
mac-xít lên án, mà trái lại, những quyền này ràng buộc thân ái con
người với con người.
Trên ý nghĩa ấy, nhơn quyền thiết lập cho người dân một mô
hình chánh trị rất đặc thù mà trọng tâm không nhằm Nhà nước, mà chính là “không
gian con người”.
Nhơn quyền kết hợp mọi người lại với nhau, tạo ra một
“không gian gặp gỡ, trao đổi, thảo luận” để từ đó, xác định những qui luật sống
chung và cũng từ đó, thành hình “tính chánh thống quốc gia” . Tuy nhiên không
phải vì thế mà Nhà nước bị “phủ định”, mà Nhà nước trở về đúng với vị trí
của mình là người đại diện nhơn dân thi hành luật pháp trong tinh thần thượng
tôn luật pháp. Nhà nước phải được hiểu chỉ là một bộ phận của xã hội nên
Nhà nước không thể tự cho mình là một toàn thể duy nhứt hay tuyệt đối.
Thời kỳ mà mối quan hệ chánh trị được thiết lập trên sự
đồng hóa công dân với nhà nước không còn nữa. Ngày nay, nhơn quyền, dân
chủ trở thành những giá trị toàn cầu, vượt trên những quyền lợi quốc gia.
Cho nên chánh trị dân chủ phải được xây dựng trên nhơn quyền làm nền tảng; Thật
vậy, bức thông điệp nhơn quyền 1789 khẳng định ” Không có nhơn quyền thì một
Nhà nước, dù là Nhà nước pháp trị (État de droit) đi nữa, có thể tồn tại, nhưng
không thể có một chánh sách dân chủ và một xã hội dân chủ”
Phải chăng vì thế mà Vùng Lên Lật Đổ Bạo Quyền để thiết lập cho đất
nước một chế dân chủ là quyền tối thượng của nhơn dân?
Hồi Nhơn Sơn, tháng 5 2009
Viết cho ngày Nhơn quyền 11 / 5 /2009
Hiệu đính 27 tháng 9 2014
TS Phan
Văn Song
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching