CHỪNG NÀO DÂN CHỦ NHÂN
QUYỀN ĐẾN VIỆT NAM
QUYỀN CÔNG DÂN, QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM CHỈ
LÀ BÁNH VẼ
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Dân chủ là một thể chế
chính trị mà trong đó nhân quyền được bảo đảm, tôn trọng, trái lại với độc tài
là một chế độ mà trong đó nhân quyền không được tôn trọng. Nhân quyền là những
quyền tự do căn bản của con người, có tính chất bẩm sinh, bất khả nhượng, đi từ
quyền tự do đi lại, tự do sinh sống, tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do ngôn luận,
tự do tín ngưỡng, tự do chính trị, tự do kinh tế v.v… . Sau những cuộc cách
mạng dân chủ nhân quyền đã xẩy ra ở Đông Âu và Liên sô, một câu hỏi đến với mọi
người là khi nào dân chủ nhân quyền sẽ đến với dân Việt Nam.
Có người bi quan cho rằng
còn lâu lắm hay có thể là không bao giờ đến.
Người khác thì lạc quan cho
rằng thời gian không lâu.
Chúng ta sẽ xem xét vấn đề
trên.
I) Quan niệm bi quan
Quan niệm này cho rằng cuộc cách mạng
dân chủ nhân quyền sẽ không đế với Việt Nam như ở Liên Sô và Đông Âu vì hoàn
cảnh lịch sử và con người khác nhau. Thêm vào đó những Đảng Cộng sản Đông Âu
được dựng lên dưới gót giày quân đội Liên Sô, thực tế là một quân đội chiếm
đóng sau Đệ Nhị Thế Chiến ; còn Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành hình qua
cuộc chống Pháp, đã lợi dụng được lòng yêu nước của dân Việt, đã lừa bịp được
dân Việt và thành phần sĩ phu, trí thức, đến nay biết rằng mình bị lừa ;
nhưng không có can đảm để từ bỏ ; mặc dầu đã có những người cộng sản phản
tỉnh ; nhưng rất ít. Thêm vào đó Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng quá ác
ôn, côn đồ, gian manh, quỷ quyệt, biết che đậy những tội ác của mình trước mắt
dân và thế giới. Bằng chứng đó là Đảng cộng sản Việt Nam ác ôn côn đồ không
thua gì Đảng cộng sản của Pol Pot, có khi còn hơn ; vì đảng của Pol Pot là
do Đảng Cộng Sản Việt Nam nhào nặn lên ; người phụ trách việc nhào nặn
không ai hơn chính là Lê đức Thọ ; Tuy nhiên thế giới chỉ nhìn thấy tội ác
của Pol Pot mà không thấy tội ác của cộng sản Việt Nam. Vì ác ôn, côn đồ, gian
manh quỷ quyệt, nên cộng sản Việt Nam theo chiến lược « Giết rắn thì phải
đập đầu « , tìm đủ mọi cách trù dập những nhà lãnh đạo công cuộc đấu tranh
cho dân chủ, nhân quyền, hay cô lập, hoặc cắt đứt liên hệ với môi trường bên
ngoài ; như việc bắt giam Cha Nguyễn văn Lý, quản thúc Hòa thượng Thích
Quảng Độ, tịch thu tiền bạc, do đồng bào trong và ngoài nước giúp để Ngài dùng
ủy lạo dân oan bị cướp đất đuổi nhà.
I I ) Quan niệm lạc quan
Quan niệm này cho rằng dù hoàn cảnh lịch sử và con người
khác nhau; nhưng cứ nhìn sự thoái trào của Cộng sản Liên Sô, mà ngày xưa Cộng
sản Việt Nam không tiếc lời ca tụng, như :” Liên Sô thành trì cách mạng”, “
Hiện tại của Liên Sô là tương lai của Việt Nam, Ngày hôm nay của Liên Sô là
ngày mai của Việt Nam “,để so sánh với sự thoái trào của Cộng sản Việt Nam hiện
nay, thì chúng ta thấy bản chất nó giống nhau; mặc dầu hoàn cảnh lịch sử và con
người khác nhau. Ông Brejnev, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Liên sô, người cầm
quyền lâu chỉ sau Staline, lúc đầu cho rằng cộng sản sẽ toàn thắng trên thế
giới, thế mà trước khi chết vào năm 1982, phải than lên: “ Xã hội chủ nghĩa gì
mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công; 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả;
công chức đến sở làm việc thì là chỉ để có mặt, sau đó đi coi hát hay làm
chuyện riêng tư.” Nhìn vào tình trạng Cộng sản Việt Nam hiện nay cũng
giống nhau. Cự Thủ tướng cộng sản Phan văn Khải, trước khi rời chức vị, có đọc
một bài diễn văn ở quốc hội, theo đó, một thùng chở hàng (container) di chuyển
từ tỉnh Bình Dương tới hải cảng Sài gòn mắc và lâu hơn từ hải cảng Sài Gòn tới
Tân gia ba; hiệu năng làm việc( productivité de travail) của một người công
chức Việt Nam chỉ bằng 1/7 hay 1/6 của một người công chức Nam hàn, Đài loan
hay Tân gia ba. Về bằng giả, theo Ủy ban Khoa học và Đào tạo của Quốc Hội Cộng
hóa 11, thì từ năm 1976 tới nay, các đại học Việt Nam cấp 8 400 bằng tiến
sĩ, trong đó có 2 700 bằng giả do hối lộ; tham nhũng càng chống càng gia
tăng; bằng giả càng bài trừ càng được phát hành; vì chính các ông lớn tham
nhũng và xử dụng bằng giả.
Về việc ác ôn, côn đồ, gian manh quỷ quyệt của Cộng sản
Việt Nam, thì sớm muộn dân sẽ biết đến (1). Việt Nam có câu: “
Sự thật như cái kim, cái dùi, dấu mãi trong túi rồi có ngày nó sẽ lòi ra, hay
nó sẽ đâm vào kẻ muốn dấu nó. Vì sợ nó lòi ra hay đâm vào chính mình, nên nhiều
kẻ giết người, dấu diếm sự thật đã tự thú, như trường hợp ông Trần huy Liệu,
Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Thông tin, tuyên truyền, cựu Chủ nhiệm Ủy ban
Nghiên Cứu lịch sử và khoa học xã hội cộng sản; trước khi chết đã thú nhận là
anh hùng Lê văn Tám, tẩm săng vào người tự đốt, rồi chạy vào phá hủy cây săng
của địch, là không có thực, chính do ông ta phịa ra.
Cộng sản Việt Nam có ác ôn côn đồ, gian manh quỷ quyệt đến
bao nhiêu chăng nữa, nhưng những hành động này sớm muộn sẽ bị phơi bày ra, sẽ
bị dân chống đối, sẽ bị thế hệ sau phỉ nhổ. Dân Việt có câu: “ Dân như nước,
quân như thuyền. Nếu thuyền đi xuôi dòng nước, thì nước sẽ chở thuyền, nếu đi
ngược, thì nước sẽ lật thuyền; như nếu quân đi hợp lòng dân, thì dân ủng hộ
quân, nếu đi ngược, thì dân sẽ lật quân.” Một chính quyền tham nhũng, hối lộ,
bằng cấp giả, đạo đức suy đồi, dân không có một đồng để sống, trong khi đó thì
đảng đoàn cán bộ tiêu tiền vứt qua cửa sổ, đánh những canh bạc cả triệu đô la;
chính quyền này là chính quyền đi ngược lòng dân, như thuyền đi ngược dòng
nước, sẽ có ngày dân nổi lên lật đổ chính quyền; như chính Lénine, thầy của
cộng sản Việt Nam, vẫn còn được cộng sản Việt Nam tôn thờ: “ Nơi nào có đàn áp,
bóc lột, nơi đó có dân đứng lên đấu tranh.”
Thêm vào đó, nếu chúng ta quan sát bản chất hai chế độ quân
chủ phong kiến và chế độ cộng sản thì chúng ta thấy rõ rằng chế độ cộng sản chỉ
là tàn dư của chế độ quân chủ phong kiến. Với chế độ này, thì vua là con Trời,
với chế độ cộng sản, thì tôn thờ lãnh tụ cũng vậy. Với quân chủ phong kiến thì
cha truyền con nối, độc tài cá nhân hay gia đình; với cộng sản thì là cũng là
độc tài cá nhân hay đảng đoàn; cũng cha truyền con nối, như Cộng sản Bắc Hàn,
cộng sản Cu Ba, “ anh truyền, em nối “; Cộng sản Việt Nam thi cũng cha truyền
con nối, nếu chúng ta xem xét lý lịch của những lãnh đạo trung Cộng và Việt
Nam; thì chúng ta thấy phầm lớn là từ những cha ông đã là lãnh tụ cộng sản
trước đây.
Chế độ quân chủ phong kiến như một đống tro tàn, trước khi
tắt ngấm, thì bùng lên ở bên phải tức độc tài phát xít, quân phiệt; sẽ bùng lên
ở bên trái, đó là chế độ cộng sản.
Chế độ cộng sản Việt Nam cũng không đi ngược lại quy luật
lịch sử này, để nhường bước cho một chế độ tự do, dân chủ. Nói như vậy không có
nghĩa là những người đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền Việt Nam khoanh
tay ngồi chờ, mà phải đấu tranh tích cực hơn, vì đã trễ lắm rồi, và vì bất cứ
một cuộc cứu rỗi nào cũng bắt đầu bằng tự cứu.
Paris ngày 28/03/2008
Chu chi Nam
ĐÂU LÀ CON ĐƯỜNG TỰ DO, DÂN CHỦ HÓA VIỆT
NAM
Ngày hôm nay ai cũng nhận
thấy rằng để phát triển kinh tế, xã hội, Việt Nam cần phải tự do, dân chủ hóa
chế độ. Nhưng đâu là con đường đưa đến tự do, dân chủ hóa Việt Nam ?
I ) Tự do, dân
chủ là gì ?
Tự do là những
quyền căn bản của con người, đi từ quyền tự do đi lại, tự do sinh sống, tự do
mưu cầu hạnh phúc, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do kinh tế, tự do
chính trị v..v… Nó có tính cách bẩm sinh và bất khả nhượng, đã được ghi trong
bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền, được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp
nhận vào ngày 10/12/1948. Tự do chính là nhân quyền vậy.
Dân chủ là một thể chế chính trị mà trong đó nhân quyền
được tôn trọng, trái với chế độ độc tài mà trong đó nhân quyền bị chà đạp.
I I ) Tự do, dân chủ là con đường tất yếu đưa đến phát
triển con người và xã hội
1) Để phát triển con người
Một con người, dù là da đỏ hay da vàng, da trắng, có
thể ví như một hạt mầm; nếu được gieo trên một mảnh đất mầu mỡ, tức sống dưới
một chế độ dân chủ, chính quyền do chính người dân bầu ra; và vì để được người
dân bầu, chính quyền này bắt buộc phải lo cho dân, lo cho họ từ lúc sơ sinh đến
lúc trưởng thành, được đi học; chính vì vậy mà hạt giống đó có nhiều khả năng
nẩy mầm, đơm hoa, kết trái. Ngược lại nếu hạt giống đó được gieo trên một mảnh
đất khô cằn, tức sống dưới một chế độ độc tài, chính quyền không do người dân
bầu ra, mà do một thiểu số đảng đòan cán bộ hay một nhóm người, một số gia tộc
tự bầu bán với nhau, không để ý đến nguyện vọng người dân, thì hạt giống đó
không thể nẩy mầm, làm sao có thể phát triển, đơm bông kết trái. Điển hình là
cả trăm ngàn trẻ em Việt Nam hiện nay phải đi bán vé số, đánh giày, hay bán
thân nuôi miệng ở bên Căm Bốt, trong đó có biết bao nhiêu nhân tài bị thui chột
vì sống dưới một chế độ độc tài.
2) Để phát triển xã hội: tư tưởng của nhà
kinh tế giải Nobel, ông Amartya Senn
Nhà kinh tế học người Anh, gốc Ấn Độ, đã bỏ nhiều công
trong việc nghiên cứu hiện tượng chậm tiến, thiếu phát triển kinh tế trên tòan
thế giới, từ châu Mỹ La Tinh, Phi châu tới châu Á. Chính công trình nghiên cứu
này đã đưa đến vinh dự là được trao giải Nobel về kinh tế năm 1998. Ông không
ngần ngại tuyên bố:
“ Lịch sử thiếu phát triển kinh tế, xã hội của những nước
chậm tiến trong thế kỷ qua đã chứng minh rất rõ rằng những dân tộc chậm tiến ít
là nạn nhân của thiên tai, của những sức mạnh bên ngoài, mà chính là từ sức
mạnh bên trong, những chính quyền độc đoán, độc tài, dù là tả hay hữu. Những
chính quyền này đã coi tài sản quốc gia như tài sản riêng tư của một thiểu số
đảng đoàn, một nhóm người, một số gia đình, gia tộc. “ Chính vì vậy mà ông đi
đến kết luận : “ Không có kinh tế tốt, nếu không có thực sự dân chủ ( Pas de
bonne économie sans vraie démocratie – Amartya senn - Nhật báo Le Monde số ngày
28/10/1998).
I I I ) Đâu là con đường dân chủ hóa Việt Nam rút
tỉa từ kinh nghiệm lịch sử
1) Lịch sử thoái trào của chế độ quân chủ
phong kiến: sự chuyển biến ôn hòa của chế độ quân chủ tiêu biểu của Anh, của
Nhật; và sự chuyển biến có tính cách bạo động của chế độ quân chủ Pháp.
Người ta có thể nói Tây phương đã phát triển mạnh hơn Đông
phương trong lịch sử cận đại là bắt nguồn từ nhiêu nguyên do, trong đó có một
nguyên do chính: đó là Tây phương đã sớm biết từ bỏ chế độ độc tài quân chủ
phong kiến để bước vào chế độ tự do, dân chủ. Mặc dầu phương Đông văn minh rất
sớm, đã biết phát minh ra địa bàn, chữ viết, thuốc nổ v. v..; nhưng bị khựng
lại vì đắm chìm quá lâu trong chết độ độc tài quân chủ phong kiến. Chúng ta có
thể nói chế độ cộng sản ngày hôm nay chỉ là chế độ độc tài phong kiến trá hình.
Thật vậy, bản chất chính của chế độ độc tài quân chủ phong
kiến đó là tôn thờ cá nhân, coi vua như con trời, cha truyền con nối, bắt dân
phải phục tùng tuyệt đối, biến giai tầng sỹ phu, trí thức thành những công
chức, chỉ biết phục vụ triều đình, càng ngày càng sống xa rời quần chúng, trọng
cái học bằng cấp, trích cú, tầm câu, hơn là thực tế thực tiễn, sống sát dân.
Đây là những nguyên do chính của sự tụt hậu Đông phương. Ngày hôm nay nhìn vào
bản chất của độc tài cộng sản cũng không khác, cũng tôn thờ cá nhân bằng cách
tôn thờ lãnh tụ, cũng cha truyền con nối, như ở Bắc Hàn, anh thuyền em nối ở Cu
Ba, ở Việt Nam thì chúng ta chỉ nhìn vào thành phần trong Bộ Chính trị và Trung
Ương đảng, chúng ta thấy phần lớn là con cháu lãnh tụ cộng sản trước đây, cũng
biến giai tầng sĩ phu trí thức thành công cụ phục vụ cho đảng, điển hình là 700
tờ báo và 200 đài phát thanh, truyền hình. Những người phục vụ cho 2 cơ quan
này không có can đảm nói lên sự thậi nếu không được phép của đảng, sẵn sang bẻ
cong ngòi bút của mình, cố gọt rũa câu văn, dùng những xảo ngữ để ca tụng bạo
quyền. Độc tài cộng sản còn tàn độc và đáng phỉ nhổ hơn độc tài phong kiến, vì
nó đã biết dung kỹ thuật khoa học cận đại để củng cố độc tài và nó không có một
tí gì là danh dự, nhân phẩm, nhân cách, ngược với độc tài phong kiến dầu sao
cũng còn có danh dự, nhân phẩm và nhân cách.
Ở đây tôi không thể đi sâu vào chi tiết lịch sử, nhưng sự
chuyển biến từ độc tài quân chủ phong kiến sang dân chủ chỉ có 2 cách: Cách ôn
hòa đó là những triều đình phong kiến ý thức rõ rằng mình không thể đi ngược
lại trào lưu tiến bộ, dân chủ của nhân loại, nên đã tự nhường quyền, chấp nhân
chế độ quân chủ lập hiến, như trường hợp điển hình của chế độ quân chủ lập hiến
đương thời Anh và Nhật.
Còn những chế độ quân chủ phong kiến không biết điều, cố
tình đi ngược lại trào lưu dân chủ, tiến bộ của nhân loại, thì bị đào thải đau
thương, điển hình là chế độ quân chủ Pháp, vua Louis XVI và hoàng hậu Marie
Antoinnette phải lên đọan đầu đài.
2) Sự chuyển biến qua chế độ dân chủ của lịch
sử cận đại
Có người nói lịch sử là tình cờ; vì “ nếu chiếc mũi của
Cléopatre hơi quằm hơn một tý, thì lịch sử nhân loại sẽ khác”; người khác thì
nói lịch sử hữu lý. Nhưng nhiều khi lịch sử chẳng tình cờ, chẳng hữu lý, mà
lịch sử lập lại; nếu chúng ta xét sự chuyển biến từ độc tài cộng sản qua dân
chủ ở các nước Đông âu vừa qua. Cũng chỉ có 2 con đường: con đường ôn hòa và
con đường bạo động.
Con đường dân chủ hóa ôn hòa hay cách mạng nhung của Tiệp Khắc
Ở đây tôi không thể đi sâu vào chi tiết lịch sử, nhưng đại để con đường
chuyển từ độc tài cộng sản qua dân chủ đó là: Giới lãnh đạo cộng sản Tiệp biết
điều, chính Quốc hội Cộng sản Tiệp tự họp lại, sửa đổi bản hiến pháp độc tài,
độc khuynh, độc đảng thành hiến pháp dân chủ, đa khuynh, đa đảng, tôn trọng tự
do, nhân quyền. Chính chính phủ cộng sản đương thời tự biến thành chính phủ lâm
thời có nhiệm vụ tổ chức bầu cử tự do, từ đó có chính quyền dân cử là nền tảng
của nền dân chủ Tiệp hiện nay.
Con đường cách mạng dân chủ bạo động của Lỗ Mã Ni. (1)
Con đường bạo động chính là con đường của Lỗ Ma Ni. Vợ chồng nhà độc tài
cộng sản Ceausescu đã nhất định không chịu từ bỏ chính quyền. Chính vì vậy mà
dân đã nổi dậy. Kết quả là cũng đi đến dân chủ; nhưng đau thương hơn vì vợ
chồng Ceausescu đã bị xử tử.
Con đường dân chủ hóa Việt Nam sẽ xẩy ra ôn hòa hay bạo động là
phần lớn tùy theo thái độ biết điều hay không của giới lãnh đạo cao cấp cộng
sản. Nếu họ còn nghĩ đến dân đến nước, muốn theo kịp càng sớm càng hay đà tiến
bộ của nhân loại, thì hãy tìm cách dân chủ hóa ôn hòa chế độ. Nếu không, thì
tức nước vỡ bờ, dân sẽ nổi lên và hậu quả khó lường.
Paris ngày 23/06/2008
Chu chi Nam
ĐẾN BAO GIỜ
VIỆT NAM MỚI CÓ HỘI NGHỊ BÌNH THAN, DIÊN HỒNG
Vào thế kỷ thứ 13, đế quốc Mông cổ rất hung mạnh, đi đâu chiến thắng tới đó. Tuy vậy, họ đã 3 lần thất bại trong việc gửi quân sang nước ta. Đượcnhư thế là vì nước Việt lúc bấy giờ lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra cứu nước. Tinh thần đoàn kết và can đảm của quân dân dưới đời Trần đã được biểu lộ qua hai hội nghị Bình than và Diên hồng. Vậy hội nghị Bình than và Diên hồng là gì ? Tại sao Việt Nam hiện nay cần Bình than và Diên hồng như một số người đã nói ?
I
) Hội nghị Binh Than, Diên hồng là gi ?
Hội nghị Bình than là một hội nghị quân sự do vua Trần nhân Tông (
1279- 1293) triệu tập vào năm 1282, để bàn về kế sách đương đầu với quân Mông, khi chúng sang xâm lược nước ta lần thứ 2.
Sở dĩ có tên là Bình than là vì hội nghị được tổ chức bí mật vào tháng 10 năm 1282 trên con sông
Thương, còn có tên là sông Bình than, tại làng Bình than, tổng Vạn tư,
nay là Gia bình, tỉnh Bắc Ninh.
Đây là hội nghị của những người nắm giữ trọng trách quốc gia, có nhiệm vụ bàn về chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy kháng chiến. Chính trong hội nghị này vua Trần nhân Tông và Thượng hoàng Trần thánh Tông đã trao quyền tổng chỉ huy quân đội cho Trần quốc Tuấn tứcTrần hưng Đạo mà dân Việt chúng ta sau này tôn lên làm Đức Thánh Trần.
Cũng trong hội nghị này, Trần quốc Tỏan, vì quá trẻ nên không được dự, đã tức giận bóp nát trái cam trong tay, sau đó tự về nhà chiêu ập quân sĩ,tham gia kháng chiến và đã lập công lớn.
Hội nghị Diên hồng là hội nghị họp vào năm 1284,
do Thượng hoàng Trần thánh Tông triệu tập các phụ lão trong cả nước, để trưng cầu dân ý, hỏi vềchủ trương nên hòa hay nên đánh, khi
quân Mông cổ có ý xâm lược nước ta lần thứ hai.. Hội nghị được tổ chức trước thềm điện Diên hồng, vào nămGiáp Thân 1284, nên được gọi là hội nghị Diên hồng, không bàn đến
chiến lược, chiến thuật quân sự, mà chỉ bàn đến chủ trương nên hòa hay nên
đánh; thì toàn thể
các bô lão đều đồng thanh cất tiếng “ Nên Đánh “. Hội nghị Diên hồng được coi như hội nghị dân chủ đầu tiên của dân Việt.
I I ) Tại sao Việt Nam hiện nay lại chưa có hội nghị Bình than, Diên hồng
Ngày hôm nay, trước chính sách bành trướng, lấn đất, cướp hải phận của Trung Cộng, nhiều người tự đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta vẫn
chưa có hội nghị Bình than với Trần quốc Toản bóp nát trái cam vì không được tham gia chống giặc, vẫn chưa có hội nghị Diên hồng với Trần hưng
Đạo, can đảm trả lời khi vua Trần nhân Tông
tỏ ý kiến: “ Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại,
hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân ?”Hưng đạo Vương tâu rằng : “ Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tôn
miếu, Xã tắc thì sao. Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu
tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng !“. Vua nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên. ( trần trọng Kim
- Việt nam sử lược – trang 136
– Nhà xuất bảnTân Việt – Sài gòn ).
Câu hỏi tại sao ở trên cũng rất dễ trả lời, đó là ngày hôm nay Việt Nam bị 2 giặc, vừa nội xâm, vừa ngoại xâm.
Thật vậy, chính quyền cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ là một thứ giặc nội xâm. Trong khi hải quân Trung cộng bắn vào ngư phủ Việt
Nam ở hải phận Việt Nam, thì giới lãnh đạo cộng sản Hà nội cụng ly với giới lãnh đạo Trung cộng ăn mừng “ Tình hữu nghị Việt Trung muôn đời
thắm tươi, môi
hở răng lạnh, được khắc bằng những chữ vàng “; mặc dầu vào năm 1979, răng đã cắn chảy máu môi, Trung cộng gửi quân sang đánh phá 6 tỉnh giápbiên giớI Việt Trung.
Cộng sản Việt Nam hiện nay không những bị lệ thuộc về chính trị, mà còn bị lệ thuộc về kinh tế và văn hóa. Hàng hóa Trung cộng tràn ngập thịtrường Việt Nam; phim ảnh Trung
cộng được bày bán khắp các nẻo đường.
Bởi lẽ đó, câu hỏi thứ nhì : Là làm thế nào để có hội nghị Bình than, Diên hồng .
- Để có hội nghị Bình than, Diên hồng, thì dân Việt phải can đảm đứng lên làm cách mạng, loại trừ giặc nội xâm, rồi sau mới tính
đương đầu với giặc ngoại xâm.
Dân việt hiện nay cần một cuộc cách mạng mang 2
ý nghĩa vừa độc lập cứu quốc và dân chủ kiến quốc (1), để tạo lên một chính quyền vì dân, vìnước, thì lúc đó mới có hội nghị Bình than, Diên hồng, lúc đó người cầm quyền và dân
mới đồng một lòng; và nói như Trần trọng Kim:
“ Vả nước An nam thời bấy giờ vua tôi hòa hợp, lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra.
“ ( Sách đã dẫn – trang 147).
Paris ngày 11/02/2009
Chu chi Nam
VIỆT NAM
ĐANG CẦN MỘT CUỘC CÁCH MẠNG
ĐỘC LẬP CỨU QUỐC, NHÂN CHỦ CỨU DÂN VIỆT
VÀ DÂN CHỦ KIẾN QUỐC
«
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. »
(
Nguyễn Du)
« Nuôi thân là nô tài. Nuôi trí là nhân tài.
Nuôi tâm là thiên tài. » ( Lý đông A )
Trước tình thế Việt Nam hiện nay :
ngoại giao thì lệ thuộc Trung cộng, bị
nước này khống chế, quốc nội, thì kinh tế
đang khủng hỏang, thua kém tất cả những nước trong vùng, giáo dục xuống cấp,
đạo lý băng họai, con người không còn là con người, bị nhiễm lý thuyết Mác Lê,
đấu tranh giai cấp, cấu xé lẫn nhau, có người cho rằng Việt Nam hiện nay cần
phải có một cuộc cách mạng mang 3 ý nghĩa :
1) Độc
lập cứu quốc. 2) Nhân chủ, triết lý, đạo đức cứu con người Việt Nam, lấy cái
tâm làm chính. 3) Dân chủ kiến quốc.
Trong những bài trước,
tôi đã viết nhiều về cách mạng độc lập cứu quốc và dân chủ kiến quốc, ở bài
này, tôi xin nói nhiều đến cách mạng nhân chủ lấy con người nói chung và
con người Việt Nam nói riêng làm chính. (1)
I ) Cách mạng là gì
Cách mạng là một cuộc
thay đổi rộng lớn, trên bình diện chính trị xã hội, nó nhằm thay đổi 3 cơ chế
chính của một xã hội : 1) Thay đổi hệ thống pháp luật, bắt đầu bằng luật
lệ căn bản, đó là thay đổi hiến pháp ; 2) Nhằm thay đổi giai tầng lãnh đạo ;
3) Nhằm thay đổi trật tự xã hội hiện tại.
Một câu hỏi đến với
chúng ta là : Tại sao Việt Nam hiện nay lại cần một cuộc cách mạng.
1) Việt nam hiện nay cần
một cuộc cách mạng, vì :
Hiến pháp hiện hành Việt
nam từ năm 1992 là một hiến pháp đi ngược lại đà tiến bộ của nhân loại, nó chủ
trương độc khuynh, độc đảng, độc tài, trong khi nhân loại bước vào thế giới dân
chủ, tôn trọng nhân quyền.
2) Giới lãnh đạo Việt
Nam từ ngày Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản cướp chính quyền vào ngày 19/8/1945
tới nay là một giới lãnh đạo buôn dân, bán nước, ngày xưa họ Hồ và Phạm văn
Đồng đã ký công hàm dâng cho Tàu 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa ; ngày
nay con cháu như Lê khả Phiêu ký 2 Hiệp ước vào năo 1999 và 2000, dâng cho
Trung cộng cả ngàn cây số vuông vùng biên giới trong đó có ải Nam quan và thác
Bản dốc, cùng cả chục ngàn cây số vuông vùng biển.
Phải thay đổi giai tần
lãnh đạo chỉ nghĩ đến cá nhân, đảng đoàn thay vì nghĩ đến quốc gia dân tộc.
3) Phải thay đổi trật tự
hiện thời vì trật tự này quá bất công : Con cháu đảng doàn, cán bộ, từ
trên xuống dưới đều hà hiếp dân, tham nhũng, hối lộ, tiêu tiền vứt qua cửa sổ ;
trong khi dân không có một đồng để sống.
I I ) Cách mạng nhân
bản, cứu con người Việt Nam thoát khỏi bàn tay cai trị của con người cộng sản
ma quái :
Việt nam hiện nay cần
một cuộc cách mạng nhân chủ, đạo đức, nói theo nhà tư tưởng chính trị Việt Nam
Lý đông A. Đó là trở về những giá trị tinh thần, nhân bản, dân tộc, từ bỏ quan
niệm duy vật hiểu ở nghĩa thấp hèn nhất của nó, có nghĩa là làm bất cứ việc gì
để thành công, làm bất cứ điều gì ngay cả giết người, phi đạo đức nhân bản, để
có tiền, để hưởng thụ.
Con người Việt phải cần
trở về chính mình với tinh thần nhân đạo của Gia huấn ca : « Thương
người như thể thương thân « , phải trở về nền tảng của nó là gia đình, tôn
giáo và quốc gia, trái lại với quan niệm cộng sản là vô gia đình, vô tôn giáo,
vô tổ quốc.
Người Việt phải lấy câu :
« Tiên học lễ, hậu học văn « làm đầu , lễ đây là lễ phép, nhân bản,
hợp với con người, hợp với lẽ phải, chứ không phải lễ theo kiểu cộng sản, đó
dưới phải hối lộ trên, dân phải hối lộ cán bộ; phải ghi nhớ câu của Nguyễn du :
« Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần. « , hay
« Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. »
I I I ) Chế độ cộng sản
đã xụp đổ ở Liên sô, Đông Âu và đang băng hoại, mục nát ở Trung Cộng và Việt
Nam :
Về nguyên do chế độ cộng
sản Liên sô sụp đổ, có rất nhiều nguyên do, người thì cho rằng tại ông
Gorbatchev, người bảo tại dầu hỏa.
1) Có người đổ lỗi cho
Gorbatchev.
Thực ra ông Gorbatchev
chỉ muốn cải tổ chế độ, nhưng vì chế độ dựa trên một nền tảng triết học, đạo
đức sai lầm, vì vậy căn nhà cộng sản đã bị đổ nát. Ông Gorbatchev đụng vào cái
cột nào định sửa đổi, đều bị lún xâu, gây ra đổ nát cột kèo và cả mái ngói.
2) Cũng
có người nghĩ rằng chế độ cộng sản Liên sô sụp đổ là vì dầu hỏa, không ai hơn
là ông Gaida, đã từng làm Bộ trưởng Kinh tế và Thủ tướng dưới thời ông Boris
Eltsine.
Theo ông, suốt trong
thập niêm 80, giá dầu hỏa bị xuống thấp, nguồn thu nhập của Liên sô cũng vậy,
vì tổng sản lượng của nước này phần lớn lệ thuộc vào xuất cảng dầu hỏa và khí
đốt. Chính vì vậy mà ngân sách bị thiếu hụt, không thể chạy đua vũ trang, không
còn là ông chủ thầu mua những chiếc tàu do Ba lan sản xuất, những chiếc xe tăng
do Đông Đức làm ra và những súng AK47 do Tiệp Khắc chế tạo.
Nguồn thâu nhập giảm,
khiến khó khăn kinh tế ngay ở tại Liên sô, sau đó lan sang các nước Đông Âu,
hãng đóng tàu ở Gdansk, Ba Lan, mà anh thợ điện Lec Waleza, đã hướng dẫn thợ
thuyền đình công, là một bằng chứng điển hình.
Tuy nhiên đây cũng chỉ
là nguyên nhân gần
Nguyên nhân xâu xa,
tôi nghĩ, đó là triết lý và đạo đức.
Nền tảng căn bản đầu
tiên để xây dựng lên xã hội con người là quan niệm triết học và đạo đức :
tôn trọng sự thật, tôn trọng sự tự nhiên, bình thường, tôn trọng những nguyên
tắc đạo đức căn bản, có tính chất toàn cầu và có giá trị muôn thuở, nói lên sự
tương quan tự nhiên, bình thường giữa con người và con người.
Tất nhiên cũng có những
nguyên tắc đạo đức cần phải thay đổi với thơi gian. Và từ nền tảng đó mới đi
tới cơ cấu chính trị, luật pháp và kinh tế.
Với cái nhìn như vậy,
thì chúng ta thấy xã hội cộng sản dựa trên nền tảng căn bản là lý thuyết Mác
Lê, đã là nền tảng sai trái, phản tự nhiên, phản bình thường và từ đó phản con
người, ngay từ lúc đầu.
Bởi lẽ đó, có người cho
rằng lý do chính để đưa đến xã hội cộng sản xụp đổ là lý thuyết Mác Lê.
Điều này không sai.
Thật vậy, lý thuyết của
Marx đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, cộng thêm với sự không
tưởng, người ta nghĩ rằng là khoa học, nhưng chẳng có gì là khoa học, và còn tệ
hơn nữa là đi theo một lời tiên tri.
Bình thường con người
cũng như một quốc gia dân tộc sống hòa bình, chỉ khi nào bất đắc dĩ, con người
và quốc gia dân tộc đó mới dùng đến bạo lực. Đằng này Marx cho rằng bản chất
của con người là bạo động, lịch sử của nhân loại là lịch sử của đấu tranh giai
cấp, như ông mở đầu bản Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng sản. Đây là ông đã lấy cái bất
bình thường làm cái bình thường. Quan niệm đấu tranh giai cấp của ông là một
lời kêu gọi nội chiến triền miên, làm cho con người xem con ngừơi như hàng dã
thú, lúc nào cũng tìm cách xâu xé lẫn nhau, sẵn sàng giết nhau vì quyền, vì
lợi.
Lịch sử những chế độ
cộng sản đã qua và đang diễn ra ở Việt nam và Trung cộng cho ta thấy rõ điều
này.
Lénine bị Staline giết
như lời tố cáo của vợ Lénine. Staline bị Khrouschev, Béria giết, qua lời tố cáo
của con trai Staline. Mao giết Lưu thiếu Kỳ, Lâm Bưu, rồi sau đó, khi Mao chết,
thì tay em của ông mang vợ ông, bà Giang Thanh ra kết án.
Hồ chí Minh giết những
người Đệ Tứ quốc tế Cộng sản, những nhà ái quốc, sau đó thì Trần quốc Hoàn, tay
em của ông hiếp, rồi giết người đàn bà đã có con với ông, bà Nông thị Xuân.
Ngày hôm nay sự cấu xé
lẫn nhau giữa những con người cộng sản, giữa giới lãnh đạo cộng sản đang diễn
ra hàng ngày, nào là vụ Bạc hi Lai, tại Trung cộng ; vụ Nguyễn tấn Dũng và
Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang đang tìm cách cấu xé nhau, ở Việt Nam.
Thử hỏi một xã hội như
thế thì làm sao con người có thể sống bình thường, hòa bình, ôn hòa, ngay
thẳng, để phát triển.
Thêm vào đó lý thuyết
Marx còn đơn giản hóa bằng cách cho rằng quyền tư hữu là nguyên do đưa đến xã
hội phân chia thành giai cấp. Nay bãi bỏ quyền tư hữu, thì không còn giai cấp,
sẽ đi đến thiên đàng cộng sản. Thực ra quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ có
thể chuyển nhượng. Đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp được chính quyền,
đánh tư bản, mại sản, bảo rằng bãi bỏ quyền tư hữu, nhưng thực tế là tước quyền
tư hữu của toàn dân, để trao lại cho một số đảng đoàn cán bộ, như chúng ta thấy
ngày hôm nay ở Trung cộng và Việt nam, toàn dân thì nghèo đói, trong khi đó cán
bộ thì giàu nức đố đổ vách.
Thiên đàng cộng sản mà
Marx đưa ra chẳng qua là lấy từ quan niệm của Do thái giáo, theo đó, con người
đang sống ở địa đàng, nhưng vì ăn phải trái cấm, nên bị đày xuống địa giới,
phải chịu cực khổ ; nhưng cực khổ đến lúc cùng cực, thì sẽ có Đấng Cứu thế
xuống cứu rỗi con người, đưa trở lên thiên đàng.(1)
Marx đã lấy quan niệm
này và hiện đại hóa, bằng cách thay trái cấm bằng quyền tư hữu, thay Đấng Cứu
Thế bằng giai cấp công nhân, thay địa đàng bằng xã hội cộng sản nguyên thủy,
không có quyền tư hữu.
Đây là một lập luận
chẳng có gì là khoa học.
Thêm vào đó Marx còn kêu
gọi bỏ mọi giá trị đạo đức nhân bản cổ truyền.
Một xã hội dựa trên một nền tảng triết học lấy cái bất bình thường làm bình thường, kông coi trọng bất cứ một nguyên tắc đạo lý, đạo đức nào, thì chỉ mang đến thảm họa cho con người, như Nghị quyết 1481 của Quốc Hội Âu châu kết án chế độ cộng sản là diệt chủng, là như vậy.
Một xã hội dựa trên một nền tảng triết học lấy cái bất bình thường làm bình thường, kông coi trọng bất cứ một nguyên tắc đạo lý, đạo đức nào, thì chỉ mang đến thảm họa cho con người, như Nghị quyết 1481 của Quốc Hội Âu châu kết án chế độ cộng sản là diệt chủng, là như vậy.
Bởi lẽ đó, cuộc cách
mạng đầu tiên, nền tảng, căn bản mà mỗi người Việt Nam, trong đó có cả người
cộng sản phản tỉnh, cả người trí thức, phải làm là dứt khoát trong tư tưởng mỗi
người, bằng cách từ bỏ lý thuyết duy vật Mác lê phản bình thường, phản tự
nhiên, phản đạo đức.
Người cộng sản hãy bắt
chước Gorbatchev và Boris Eltsine.
Người trí thức hãy bắt
chước trí thức Nga, không dạy lý thuyết Mác lê trong trường.
Người dân nên theo người
dân Nga lấy câu châm ngôn : « Một lời nói sự thật nặng hơn quả địa
cầu «. Đừng để cho tuyên truyền cộng sản phỉnh gạt, cho ăn bánh vẽ. Hãy can đảm
theo dân Ba Lan, nghe lời dạy của Đức Giáo Hoàng Jean Paul II : « Hãy
can đảm, hy vọng và đừng sợ xệt ! «
Những câu hỏi đến với
chúng ta : Tại sao cách mạng Hoa Lài đến với Tunisie, tràn sang Ai cập, Lybie,
Syrie, sang cả Á châu với Miến điện, mà không sang Việt Nam ?
Dân tộc Việt còn đợi đến
bao giờ ? Không lẽ sống hoài trong bóng đêm độc tài cộng sản ?
Để trả lời những câu hỏi
trên, không phải là một chuyện đơn giản, cần cả bao quyển sách. Nhưng đại để,
chúng ta có thể chia làm 2 trường phái khác nhau : 1) Bi quan và 2) Lạc
quan.
Trường phái bi quan cho
rằng cách mạng dân chủ, nhân quyền không đến hoặc đến thì còn rất lâu với Việt
nam, họ viện những lý lẽ sau :
Chế độ cộng sản Việt nam
là một chế độ độc tài toàn diện, rất ác ôn, côn đồ, gian manh, giảo quyệt, có
lẽ là nhất thế giới hơn cả Nga và Tàu. Nó đã cướp được chính quyền, thì ngày
hôm nay nó sẽ làm bất cứ cái gì, để giữ quyền, dù là bán nước.
Thêm vào đó chúng còn
dùng thủ đoạn hạ cấp, mafia, du côn, dù kề , đánh phá những người đấu
tranh cho dân chủ, đàn áp, vu khống, bắt bớ, thậm chí bỉ ổi như cho công an vứt
cứt vào nhà. Có lẽ chưa một chính quyền nào trên thế giới lại vô liêm sĩ như
thế.
Chúng hành động theo
kiểu “ Duy vật hạ cấp « , trên không có trời, dưới không có đất, khác với
những chính quyền độc tài hữu, như ở Tunisie, Ai cập, Miến Điện, họ hành động
còn có trời, có đất.
Vì gian manh, giảo
quyệt, chúng ý thức rất rõ rằng, để làm được cách mạng thì phải có hướng dẫn và
tổ chức, nên chúng tìm cách « Đánh rắn, phải đánh bẹp đầu « , chúng
bắt giam, cô lập những nhà đấu tranh cho dân chủ như Cha Nguyễn văn Lý, Hòa
thượng Thích Quảng Độ, Bác sĩ Nguyễn đan Quế, Cụ Lê văn Liêm, luật sư Lê thị
Công Nhân, cô Nguyễn thị Phong Tần, anh Điếu cày và nhiều nhà đấu tranh khác.
Đồng thời chúng tìm cách phân tán, chia rẽ tối đa, không cho người này gặp
người nọ. Không có lãnh đạo, không có liên lạc thì làm sao gầy dựng tổ chức.
Gần đây trên mạng có
người đưa ra một tài liệu đánh giá người Việt gồm 10 điểm như sau : 1) Cần
cù lao động, song có tâm lý hưởng thụ ; 2) Thông minh, sáng tạo, song
thường có tính chất đối phó ; 3) Khéo léo, song ít duy trì đến cùng, ít
quan tâm đến sự hòan hảo ; 4) Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại nhút nhát ;
5) Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít học từ đầu đến đuôi, nên
kiến thức không hoàn hảo, mất cơ bản. Ngoài ra học tập không phải là mục tiêu
của tạo thân của mỗi người, mà học vì gia đình, vì sĩ diện, vì công ăn việc
làm, ít khi vì đam mê, nên học xong là bỏ dở không nghiên cứu, học hỏi thêm
tiếp ; 6) Vui vẻ cởi mở với mọi người, song không bền ; 7) Tiết kiệm,
song nhiều khi hoang phí vì những việc vô bổ ; 8) Có tinh thần đoàn kết,
tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong hoàn cảnh khó khăn, bần hàn. Còn
trong hoàn cảnh sống tốt hơn, giàu có hơn, thì tinh thần này ít xuất hiện ;
9) Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, háo thắng vì những
lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cuộc ; 10) Thích tụ tập, nhưng lại
thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh ( Cùng một việc, một người làm thì tốt,
3 người làm thì kém, và 7 người làm thì hỏng.)
Thực ra thì những điều
trên, các cụ Việt Nam như Phan bội Châu, Phan chu Trinh, Trần trọng Kim đã nhìn
ra từ lâu.
Và dân tộc nào cũng có
tính tốt và xấu. Tuy nhiên, thảm họa của dân tộc Việt là đức tính tốt càng ngày
càng giảm, và tính xấu càng ngày càng tăng so với những dân tộc khác, vì từ
ngày đảng cộng sản cầm quyền, với những lãnh đạo là những kẻ vô thử, vô thực,
không có một nguyên tắc đạo lý nhân bản tối thiểu, miễn sao là thành công, bắt
đầu từ họ Hồ cho tới ngày hôm nay.
Nhiều người đặt câu hỏi :
Tại sao những cuộc cách mạng Hoa Lài, cách mạng Tím, cách mạng Hoa Hồng, cách
mạng Xanh xẩy ra ở khắp nơi, mà lại không xẩy ra ở Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên do,
nhưng tôi xin tạm nêu ra 2 nguyên do chính : Đó là những dân tộc như
Tunisie, Ai cập v.v.. họ có tinh thần công lý, công nghĩa, tương thân tương
trợ, một người đàn áp bóc lột, bị công an đánh đập vô duyên cớ là cả làng họ
cùng nhau đứng lên bên vực người này. Trong khi đó ở Việt Nam, nhà hàng xóm
cháy kệ họ, miễn nhà mình không cháy là được rồi. Ở đây tôi không nói xấu người
Việt, tôi chỉ nêu lên một sự thật. Có người cho rằng ở Hà nội trường phái «
Mackeno « đang thịnh hành, có nghĩa là « Mặc kệ nó « , nó muốn sống
chết làm sao kệ nó, miễn ta yên thân là được rồi. Lý do thứ nhì là dân Tunisie,
Ai Cập v.v…, nhất là giới trí thức, họ sống dấn thân, cởi mở, đi nhà thờ mỗi
tuần, họ tin Thượng đế, phân biệt rõ ràng tốt xấu, trong khi dân Việt, thì đại
đa số « Mũ ni che tai « , giới trí thức, ở đây tôi không vơ đũa cả
nắm, nhưng phần lớn quá hèn hạ, có tinh thần « Trên đội, dưới đạp « ,
tinh thần phong kiến xa xưa, và trở nên trầm trọng dưới chế độ cộng sản ngày
hôm nay, lâu lâu cũng làm « Thỉnh nguyện thư, hay lên tiếng phê bình chế
độ khi đã về hưu, để cho lương tâm đỡ cắn rứt ; nhưng phần lớn chỉ là xu
nịnh bạo quyền để được chút canh thừa, cơm cặn do bạo quyền ban cho, mặc dân
đói khổ, mặc cho bất công đầy rẫy, mặc cho quê hương đất nước trên thực tế đã
bị Tàu đô hộ.
Đó là cái nhìn bi quan.
Còn cái nhìn lạc quan thì thế nào ?
Những người lạc quan cho
rằng chưa một dân tộc nào bị đô hộ cả ngàn năm bởi người Tàu và cả trăm năm bởi
người Pháp, thế mà vẫn quật cường đứng dậy. Vì vậy ngày hôm nay dù đang bị đô
hộ lại bởi người Tàu, với sự toa rập của Đảng Cộng sản, bắt đầu bằng Hồ chí
Minh ; nhưng sớm muộn dân tộc Việt sẽ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản vông
nô, vọng ngoại, giành lại độc lập cho nước nhà.
Nhất là chế độ cộng sản,
không những Việt nam, mà cả Trung cộng, chỉ là một chế độ phong kiến, độc tài,
còn tồi tệ hơn cả phong kiến, vì giới lãnh đạo không có nhân cách, nhân phẩm và
danh dự, có thể làm bất cứ chuyện gì để đạt tới thành công.
Nhà văn Nga, giải thưởng
Nobel văn học năm 1973, đã viết :
« Cộng sản là một
loại đến từ một hành tinh khác, và chỉ mang trong đầu một ý nghĩ duy nhất :
Phá hủy tất, chém giết tất cả những gì thuộc về thế giới con người. »
Đã từ lâu trong Kinh
Thánh có câu chỉ những kẻ vô đạo, vô thần, mà ngày hôm nay áp dụng cho lý
thuyết cộng sản, cho người cộng sản vẫn còn đúng :
« Nó tự ru ngủ
bằng một lý thuyết đơn giản, trái sự thật và sai lầm. Nó tự khoác vào người nó
một bộ áo đạo đức giả ; nhưng bản chất thật của nó thì vô cùng gian manh,
giảo quyệt, ác ôn và côn đồ. Nó đã hạ thấp hình ảnh tốt đẹp và cao thượng của
con người xuống hàng xúc vật, rắn rết và bò sát. »
Bởi lẽ đó, chế độ cộng
sản đã bị đào thải ở ngay cái nôi của nó là Liên sô và Đông Âu, rồi sẽ bị đào
thải ở Trung Cộng và Việt Nam.
Nói như vậy, không có
nghĩa là chúng ta khoanh tay ngồi chờ, mà phải tiếp tục đấu tranh.
Vì là một cuộc cách mạng
độc lập cứu quốc, nhân bản cứu con người Việt Nam, thoát khỏi bàn tay cai trị
của người cộng sản ma quái, và là một cuộc cách mạng dân chủ kiến quốc, nên nó
bắt đầu từ bản thân mỗi người Việt, từ người dân thường cho tới trí thức, cố
gắng khắc phục từng khó khăn một, từ suy nghĩ, tính tình tới những tập quán
xấu, sau đó tìm cách phổ biến những điều hay, lẽ phải cho những người gần chung
quanh và cho cả dân tộc.
Đừng thấy những dân tộc
khác họ đã làm được cuộc cách mạng dân chủ nhân quyền, mà chúng ta nóng lòng,
trở nên bi quan ; nhưng cũng đừng quá lạc quan, cho rằng cộng sản nhất
định sẽ đổ, rồi khoanh tay ngồi chờ.
« Hãy cứu mình trước, rồi Thượng đế sẽ cứu mình sau ! «
Paris ngày 12/10/2012
Chu
chi Nam
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching