Robert Kagan - ĐẠI CƯỜNG KHÔNG
ĐƯỢC NGHỈ HƯU: THẾ GIỚI SẼ NGUY HIỂM, NẾU MỸ TỪ BỎ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
Thứ Năm, ngày 17 tháng 7 năm 2014
Battlefield Vietnam -
Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
Phạm Việt Vinh dịch
Trước hiểm họa Trung Quốc ngày càng gia tăng, nhiều người Việt
đang đặt hy vọng vào sự “chuyển trục” sang châu Á của Mỹ và vai trò của Mỹ tại
khu vực này. Tiểu luận sau đây có thể cung cấp một góc nhìn đáng tham khảo.
Tác
giả Robert Kagan, 55 tuổi, là một cây bút và cố vấn chính trị người Mỹ. Là một
nhân vật tân bảo thủ có thế lực và là một chuyên gia về chính trị quốc tế, ông
viết nhiều cuốn sách, trong đó có quyển Sức mạnh và bất lực bảo
vệ đường lối ngoại giao của Mỹ dưới thời George W. Busch. Victoria Nuland, vợ
ông, làm việc tại Bộ Ngoại giao Mỹ chuyên trách các vấn đề Châu Âu và Á-Âu.
Gần
đây nhất, một cuộc điện đàm giữa bà và Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine về những diễn
biến căng thẳng ở Ukraine và vai trò của phương Tây bị nghe trộm và tung lên YouTube, trong đó bà dùng cụm từ
“Fuck the EU” và cho
biết Mỹ muốn nhân vật dân chủ nào sẽ đứng đầu chính phủ Ukraine mới. Theo cách
phân định thường gặp, Robert Kagan đại diện quan điểm của phe được mệnh danh là
“diều hâu” trong đường lối ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ.
- Người dịch
I.
Các đây gần 70 năm, một
trật tự thế giới mới đã hình thành từ đống hoang tàn của Thế chiến thứ hai.
Trung tâm của trật tự mới này là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ngày hôm nay, ở trật tự
thế giới đó đã xuất hiện những vết nứt. Thực ra thì những khủng hoảng ví dụ như
giữa Nga và Ukraine hay như ở Syria không phải là hy hữu và cũng chẳng phải là
không kiểm soát nổi.
Ngay cả những phản ứng rụt rè của Liên Hiệp Quốc trước các
biến động tại Ukraine, rồi các vụ nổi dậy tại Trung Cận Đông, tại Bắc Phi, các
chiến thắng của lực lượng Thánh chiến khủng bố tại Syria và Iraq, sự căng thẳng
mang tính quốc gia chủ nghĩa ngày càng gia tăng giữa các cường quốc tại Đông Á
hay là sự lấn lướt của toàn trị và sự thoái lui của dân chủ trên khắp thế giới
cũng không là điều đặc biệt và bất khả kháng. Nhưng tất cả những điều đó gộp
lại cho thấy một cái gì đó đã thay đổi; và sự thay đổi này diễn ra nhanh hơn
chúng ta tưởng. Có vẻ như một trật tự thế giới mới đang xuất hiện.
Nếu
thật sự là trật tự thế giới cũ sẽ bị sụp đổ, thì nguyên do không nằm ở sự suy
giảm thế lực của Mỹ – sự cường thịnh và vai trò của nước Mỹ vẫn đủ lớn để nó có
thể giải quyết thành công các thách thức của thế giới hôm nay. Nguyên do này
cũng không nằm ở chỗ các vấn đề chính trị toàn cầu hiện nay ngày càng trở nên
phức tạp và khó giải quyết hơn. Và nguyên do này cũng không đơn giản nằm ở sự
mệt mỏi vì chiến tranh. Điều hy hữu là nguyên do này nằm trong đầu của (người
Mỹ) chúng ta, đó là vấn đề về bản ngã và sự quyết đoán của người Mỹ.
Nhiều
người Mỹ và các thủ lĩnh chính trị của cả hai đảng (Dân chủ và Cộng hoà), kể cả
Tổng thổng Obama đã quên, hoặc lánh xa những cái đã làm nên thành công của
ngoại giao Mỹ – trước hết, đó là ý tưởng về một trách nhiệm toàn cầu, trong đó
quyền lợi của nước Mỹ được đặt ngang bằng với quyền lợi của nhiều nước khác
trên khắp thế giới. Có vẻ như ngày hôm nay người ta lại quay về với những khái
niệm lợi ích quốc gia được hiểu theo nghĩa hẹp.
Điều này nhiều khi được gọi là
“chủ nghĩa cô lập”. Nhưng cụm từ này không đúng. Thực chất, nó chính là một nỗ
lực tiến tới sự bình thường.
Đằng sau sự bức bối của người Mỹ muốn tiếp tục đảm
đương vai trò cũ là lòng mong mỏi muốn rũ bỏ những gánh nặng trách nhiệm mà các
thế hệ trước đã tự lãnh nhận trong Thế chiến thứ hai và trong toàn bộ tiến
trình Chiến tranh Lạnh. Nước Mỹ muốn trở lại thành một quốc gia “bình thường”,
muốn quan tâm nhiều hơn tới những nhu cầu riêng và cắt giảm sự chú ý tới những
nhu cầu của thế giới.
Để
có thể hiểu Mỹ và nhân loại có thể sẽ tiến tới đâu, chúng ta cần phải nhớ lại
trong quá khứ nguời Mỹ đã quyết định như thế nào, và đã tạo ra những biến đổi
sâu sắc như thế nào cho thế giới. Cái đã xảy ra trước đây gần 70 năm là một
cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Trước đó, tức là trước Thế
chiến hai, Mỹ luôn từ chối những đóng góp toàn cầu mang tính dài hạn. Đối với
phần lớn người Mỹ, đó là sự trả lời hợp lý nhất cho thế giới trong những năm 20
(của thế kỷ trước). Khi đó, hầu như đe dọa không hiển hiện: người ta cho rằng
nền Cộng hoà Weimar non yếu rồi sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khi nước Đức một
lần nữa tìm cách thống trị châu Âu. Nước Nga thì kiệt quệ vì nội chiến và khủng
hoảng kinh tế. Và mặc dù đang theo đuổi những ý đồ to lớn thì ở Nhật Bản vẫn có
một nền dân chủ mong manh.
Người
Mỹ vẫn tiếp tục giữ đường lối bình thường ngay cả khi trật thứ thế giới khi đó
bị tẩy xóa và sụp đổ: bắt đầu bằng sự tiến quân của Nhật Bản vào Mãn Châu năm
1931 cho đến khi nước Áo sáp nhập vào nước Đức của Hitler và tiếp theo là sự
thâu tóm Tiệp Khắc năm 1938/1939 của nước Đức Quốc xã. Những sự kiện này làm
cho người Mỹ kinh hoàng, nhưng họ vẫn không nhìn thấy sự cần thiết phải ra tay.
Ngay
cả khi quân Đức tràn vào Ba Lan năm 1939 và Thế chiến hai bùng nổ, những sách
lược gia Mỹ vẫn tuyên bố rằng nước Mỹ là bất khả xâm phạm, nước Mỹ được bảo vệ
bởi hai đại dương và có trong tay một lực lượng hải quân hùng mạnh.
Nhận thức
này phổ cập đến mức một vị Tổng thống có đầu óc toàn cầu như Franklin Roosevelt
cũng e dè trong ăn nói và phải hứa hẹn rằng nước Mỹ sẽ không tham gia chiến
tranh. Trong một diễn văn nổi tiếng vào năm 1936, ông tuyên bố: “Tôi căm ghét
chiến tranh!” Nhưng hai năm sau đó, khi Hiệp ước München được ký kết, ông ta
mới phát hoảng và bắt đầu cảm thấy rằng những cường quốc Tây Âu như Anh và Pháp
đã mất hết quyết tâm đương đầu với Hitler. Chỉ khi đó Roosevelt mới bắt đầu
cảnh báo người Mỹ về một hiểm họa đang bùng phát.
Quyết
định tham chiến chỉ diễn ra sau vụ Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công năm 1941 của
Nhật vào Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố chiến tranh của Hitler sau đó và
cuộc tham chiến toàn diện của Mỹ vào các xung đột tại châu Âu và châu Á là một
cú sốc với người Mỹ.
Lòng tin của (người Mỹ) chúng ta rằng nước Mỹ vẫn ổn vững
giữa một thế giới hỗn loạn đã vỡ vụn trong một ngày. Những sự kiện năm 1941 đòi
hỏi phải có một định nghĩa mới cho khái niệm quyền lợi của nước Mỹ. Thêm vào
đó, người ta hiểu ra rằng sự thịnh vượng và ngay cả an ninh của nước Mỹ cũng
phụ thuộc vào một nền kinh tế toàn cầu lành mạnh.
Với
nhận thức rằng nguồn gốc của Thế chiến hai nằm ở sự sụp đổ của trật tự thế giới
trên các mặt chính trị, kinh tế và sách lược, ngay sau khi nhảy vào cuộc chiến,
chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai một trật tự thế giới lâu dài mới. Lần này, nó
phải là một trật tự thế giới dựa trên sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự
của Mỹ. Người châu Âu đã tự chứng tỏ rằng họ bất lực khi phải gìn giữ hòa bình.
Mỹ đứng ra đảm lãnh vai trò quyết định trong việc chiếm đóng và chuyển hóa các
nước bại trận.
Tại các nước đó, Mỹ tự lãnh trách nhiệm phải tạo ra một chính
thể dân chủ nào đó để thay thế chế độ độc tài đã lôi kéo các quốc gia đó vào
cuộc chiến. Nước Mỹ phải có một sức mạnh áp đảo về quân sự, và khi cần thiết,
phải có khả năng điều một lực lượng chiến đấu cần thiết đi bảo vệ sự ổn định và
an ninh tại châu Âu, châu Á và Trung Cận Đông.
Trong tính toán của Roosevelt và
các cố vấn của ông, vũ lực quân sự đóng một vai trò trung tâm. “Hòa bình phải
được gìn giữ bằng vũ lực”, Roosevelt tuyên bố như vậy. Ngoài ra, “không còn con
đường nào khác”.
II.
Sách
lược tổng thể như trên là một bước ngoặt dứt khoát của Mỹ đối với cái gọi là
“sách lược bình thường”. Sách lược này không phải là vô tư hay không vụ lợi.
Những người cầm đầu chính phủ Mỹ tin rằng, sách lược trên phục vụ tốt nhất cho
quyền lợi của Hợp chúng quốc.
Ngoại trưởng Mỹ (từ 1949 đến 1953, ND) Dean
Ascheson từng tuyên bố: “Nước Mỹ phải học cách hành xử trong một liên đới trách
nhiệm lớn hơn cả lợi ích của bản thân nước Mỹ”. Điều này là một cuộc cách mạng
thực sự trong sách lược ngoại giao của Mỹ.
Vào
cuối những năm 40 và trong những năm 50, Mỹ đã chi ra hàng tỷ Dollar để tái
thiết châu Âu và lập liên minh quân sự với các cựu thù của mình như Đức và Nhật
Bản cũng như nhiều nước châu Âu khác mà trước đây Mỹ không mấy tin tưởng. Thậm
chí, người Mỹ còn mở rộng lá chắn hạt nhân để ngăn chặn khả năng tấn công thông
thường của Liên Xô đối với Tây Âu; bằng cách này, người Mỹ đã tự nguyện đứng ra
làm mục tiêu của vũ khí hạt nhân Liên Xô. Trong những năm 50 và 60, nhiều khi Mỹ
đã chi ra 10 phần trăm hoặc cao hơn 10 phần trăm tổng thu nhập quốc gia cho
quốc phòng. Mỹ cũng tiến hành hai cuộc chiến tốn kém tại Triều Tiên và Việt Nam.
Sau
Thế chiến hai, vào những năm 50, Mỹ đã gây dựng và thúc đẩy sự phát triển của
một trật tự thế giới tự do; Mỹ đã tạo ra “thế giới tự do”, trong đó hòa bình và
thịnh vượng đã có khả năng ra hoa kết trái ở một thời kỳ có một không hai trong
lịch sử thế giới.
Mặc
dù sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô có những lúc gia tăng đến mức nguy hiểm,
nhưng về cơ bản, đây là thời kỳ được đánh dấu bởi nền hòa bình giữa các đại
cường. Sự có mặt của Mỹ tại châu Âu và Đông Á kết thúc vòng xoáy chiến tranh đã
hủy hoại nặng nề hai vùng đất này kể từ đầu thế kỷ 19.
Trên thế giới, số lượng
các nền dân chủ tăng lên nhanh chóng. Phần lớn thế giới được thụ hưởng một sự
thịnh vượng chưa từng có từ trước tới nay. Mặc dù không thiếu những thảm họa và
nguy cơ thảm họa cũng như đã xảy ra hai cuộc chiến tốn kém tại châu Á, nhưng về
tổng thể, sách lược trên đã thành công, và thành công đến mức là Đế chế Xô-viết
cuối cùng đã sụp đổ cũng như đã phải tự động thoái lui trước những thành tựu về
kinh tế và chính trị của Phương Tây. Tất cả những điều trên là kết quả của
nhiều yếu tố, nhưng không một thành tích nào có thể hiển hiện nếu không có ý
chí của Mỹ đảm trách vai trò bất bình thường của người gìn giữ và bảo vệ một
trật tự thế giới vị tự do.
Sự
công nhận rộng khắp thế lực của Mỹ, số lượng đông đảo các nước liên minh và
thực tế là không có một cường quốc nào liên kết với Liên Xô để chống lại Mỹ đã
tạo ra một tình thế có một không hai, đó là: trong lịch sử thế giới, chưa từng
có một quốc gia nào đóng một vai trò toàn cầu to lớn như vậy, và cũng chưa từng
có một quốc gia nào có khả năng như vậy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như Liên
bang Xô-viết tan vỡ và sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản tiêu tan?
III.
Khi
Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã nghĩ rằng, cuối cùng thì nước Mỹ cũng
được giải phóng khỏi cái trách nhiệm toàn cầu nặng nề mà nó đã mang vác hơn 40
năm. Thế giới vào đầu những năm 90 có vẻ như khá ổn vững. Liên bang Xô-viết hồi
đó đang nằm trong tình trạng phá sản về chính trị và kinh tế; Trung Quốc bị cô
lập về kinh tế và ngoại giao sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Vậy thì có mối đe
dọa nào bắt nước Mỹ phải tiếp tục gánh chịu vai trò bất bình thường trên thế
giới? Liệu nước Mỹ có thể quay trở lại làm một quốc gia bình thường với một
định nghĩa bình thường về lợi ích quốc gia?
Tháng
Chín 1990, Jeane Kirkpatrick, nữ đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng
thống Ronald Reagan, đã tuyên bố một câu trong bài viết “A Normal Nation in a
Normal Time”, rằng “không còn có nhu cầu cấp thiết về chủ nghĩa anh hùng và
lòng hy sinh” nữa. Kirkpatrick đã nói ra điều mà nhiều người đã nghĩ sau khi bức
tường Berlin đổ sụp. Với tiểu luận “Sự cáo chung của lịch sử”, nhà nghiên cứu
chính trị Francis Fukuyama khẳng định rằng, với chiến thắng của dân chủ thì
bóng dáng của những thách thức về ý thức hệ và về địa chính trị cũng biến mất.
Nỗi nguy hiểm lớn nhất cho tương lai sẽ là cái tẻ nhạt trống rỗng của sự tồn
tại trong một chủ nghĩa tự do Tây phương thiếu vắng tinh thần và hủy hoại tâm
hồn.
Điều
đáng lưu ý là trong hai thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đã vẫn theo
đuổi sách lược ngoại giao tổng thể có từ thời Roosevelt. Tháng Tám 1990, quân
đội Iraq của Sadam Hussein tràn vào Kuwait và nuốt trọn xứ này chỉ trong có vài
ngày.
Cuộc xâm lược đã diễn tiến một cách tàn bạo, nhưng so với những sự kiến
chấn động của thế kỷ 20 thì nó vẫn còn khá êm dịu. Mặc dù tiên liệu việc đánh
đuổi quân Iraq ra khỏi Kuwait là “hao tốn và bất trắc”, nhưng chính phủ Bush lo
rằng nếu được bỏ qua, thì cuộc xâm lăng của Iraq rất có thể sẽ là “một tiền lệ
khủng khiếp cho thời đại sau Chiến tranh Lạnh”. Sự tha thứ cho việc lấn chiếm
trong một khu vực sẽ kích thích chiến tranh xâm lược tại những khu vực khác.
Tổng thống Bush còn nhớ rất rõ những điều này trong các năm 30. Lần này, ông
viết trong hồi ký của mình: “Tôi không muốn luôn phải nhượng bộ trước những
hành vi bành trướng”.
Vậy
là trong vòng 10 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nước Mỹ đã tiến hành hàng
loạt những chiến dịch quân sự: Panama (1989), Iraq (1991), Somalia (1992),
Haiti (1994), Bosnia (1995), Iraq lần thứ hai (1998) và Kosovo (1999). Không
một cuộc chiến nào trong số đó là phản ứng trước một cái gọi là đe dọa sống còn
đối với lợi ích quốc gia. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ và mở rộng trật tự
thế giới vị tự do thông qua việc lật đổ các chế độ độc tài và dẹp các cuộc đảo
chính.
Bill
Clinton mở rộng khối Nato tới Ba Lan, Tiệp, và thúc đẩy hợp tác quân sự với các
nước vùng Baltic. Với hàng tỷ dollar, ông tìm cách cứu vớt cuộc thí nghiệm dân
chủ còn ngất ngư của Boris Yeltsin tại Nga, và tiến hành một chính sách ngăn
chặn dứt khoát đối với Bắc Triều Tiên, Iran và Iraq – những nước bị gọi là “các
nhà nước bất hảo” do đã khinh bỉ một trật tự thế giới vị tự do. Những xung đột
tại các vùng xa xôi và bất ổn không phải là điều vô hại đối với lợi ích của
nước Mỹ.
Theo
nhận định thông thường thì người Mỹ hôm nay đã mệt mỏi với chiến tranh. Nhưng
có lẽ sẽ chính xác hơn nếu cho rằng người Mỹ đã “mệt mỏi với thế giới”. Ngày
hôm nay, hơn 50 % người Mỹ nghĩ là “trên trường quốc tế, nước Mỹ chỉ nên quan
tâm tới các vấn đề của mình và phó mặc cho các quốc gia khác tự giải quyết công
việc của họ” – đó là một tỷ lệ cao chưa từng có trong lịch sử thăm dò dư luận
tại Mỹ.
IV.
Các
sử gia thường nói đến quá trình trưởng thành của chính sách ngoại giao Mỹ kể từ
thế kỷ 19. Nhưng nếu một quốc gia có thể học hỏi dần thì nó cũng có khả năng
quên dần. Khi quan sát kỹ hơn đường lối ngoại giao của Mỹ hiện nay và các cuộc
tranh luận về nó, dần dần người ta sẽ có cảm giác là những tiền đề của sách
lược tổng thể thời Roosevelt đã bị lãng quên. Cũng có lẽ đó là điều không thể
tránh khỏi.
Ngày nay, Thế chiến hai đối với những người sinh vào thời kỳ chuyển
tiếp thiên niên niên kỷ cũng xa xưa như cuộc Nội chiến Mỹ đối với thế hệ những
năm 30.
Một thế hệ không còn nhớ đến thời Chiến tranh Lạnh và chỉ trải qua các
cuộc xung đột tại Iraq và Afghanistan sẽ có một cách nhìn khác về vai trò của
Mỹ trên thế giới. Người Mỹ hôm nay không còn là những kẻ cô lập như thời những
năm 20. Họ ủng hộ một trật tự thế giới tự do khi nào nó cho họ thấy một nguồn
lợi trước mắt. Nhưng họ không còn muốn phải hy sinh nhiều để giữ vững trật tự
thế giới đó. Như thần Atlas, người Mỹ đang phải vác nặng thế giới trên đôi vai
của mình.
Đó là một trách nhiệm vĩ đại. Số tiền khổng lồ mà họ phải chi ra cho
kinh phí quốc phòng lớn hơn tất cả số tiền của các quốc gia khác cộng lại. Vậy
thì liệu những đồng minh của họ có thể sẽ có những đóng góp lớn hơn không?
Câu
hỏi này đã được đặt ra từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng câu trả lời luôn
luôn là: Rất có khả năng không! Những nguyên do cho phép nước Mỹ bảo vệ trật tự
thế giới tự do cũng lý giải vì sao những đồng minh của Mỹ luôn rụt rè và ít có
khả năng làm việc này: Họ không có sức mạnh và sự an toàn để có thể nhìn vượt
qua lợi ích quốc gia đã bị định nghĩa hẹp của họ và phản ứng một cách thích
đáng.
Vì thế, chỗ nào mà họ đã thất bại thì họ cũng sẽ lại thất bại. Ngay cả
những người châu Âu của thế kỷ 21 với những thành tựu tuyệt vời của họ trong
quá trình thống nhất chính trị có vẻ cũng hoàn toàn không có khả năng nắm tay
nhau để chống lại một “con thú dữ”, và cũng như trong quá khứ, nếu cần thiết
thì họ cũng sẵn sàng ném những kẻ ốm yếu cho “con thú dữ” đó xé xác để cứu vãn
sự an toàn (cho túi tiền) của họ. Đạo đức cũng có giá của nó.
Như
phần lớn nhân loại, người Mỹ rất thích tin rằng họ sẽ hành xử đúng và đứng vào
phía đúng. Họ cũng mong rằng những hành động của họ là chính nghĩa hay là hợp
pháp.
Nhưng
trên thế giới không tồn tại một cơ cấu đảm bảo trật tự có tổ chức và theo một
luật lệ toàn cầu, đó là chưa nói đến việc nó không thể có một cơ cấu đảm bảo
trật tự dân chủ mà tất cả các quốc gia phải tuân theo. Vấn đề chính nghĩa hay
phi chính nghĩa không được phân định bởi một tiến trình tìm lẽ phải vô tư, mà
hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân chia quyền lực trong hệ thống.
Về nguyên tắc, để
hợp lý thì ngoài lòng tin của bản thân, người Mỹ phải sử dụng sức mạnh của mình
để thực hiện những ý tưởng về chính nghĩa của mình mà không cần thêm sự công
nhận của bên ngoài. Đó là một gánh nặng về đạo đức cho một xã hội dân chủ. Ở
quốc gia của mình, người Mỹ đã quen với việc chia xẻ đều gánh nặng này cho
những đôi vai khác nhau trong xã hội.
Người dân tạo ra luật pháp, cảnh sát làm
cho pháp luật có giá trị, thẩm phán và bồi thẩm ra phán quyết và nhân viên nhà
tù thực thi bản án. Trong khi đó, trên trường quốc tế, nước Mỹ vừa là thẩm
phán, bồi thẩm, vừa là cảnh sát, và khi có hành động quân sự thì nó đóng luôn
cả vai đao phủ. Cái gì đã cho phép nước Mỹ hàng động nhân danh một trật tự thế
giới vị tự do? Thực tế là không có cái gì như thế cả, ngoài lòng tin rằng trật
tự thế giới vị tự do là một thực thể chính nghĩa nhất.
Nan
đề đạo đức này có thể dễ dàng được bỏ qua vào thời Chiến tranh Lạnh; khi đó mọi
hành động, ngay cả khi chúng được tiến hành ở những nơi xa xôi nhất, cũng có
thể được biện hộ bởi quyền lợi quốc gia lành mạnh.
Ngược lại, những biện pháp
bảo vệ trật tự thế giới luôn làm bật ra những câu hỏi phức tạp về đạo đức. Mỹ
và châu Âu khẳng định rằng chủ quyền của Ukraine là bất khả xâm phạm và người
Ukraine phải được quyền quyết định rằng họ có nên trở thành một thành viên của
Liên minh châu Âu hay không.
Vladimir Putin biện hộ việc sáp nhập Krym vào Nga
bằng những ràng buộc lịch sử và lý giải sự kiện này là một phản ứng trước việc
Mỹ và châu Âu can thiệp vào một khu vực ảnh hưởng lịch sử của Nga.
Vậy ai là
người có khả năng vô tư để phân định đúng sai giữa những quan niệm đối chọi
nhau về pháp lý như trên? Sẽ vô vọng nếu như mang cách nhìn được coi là có ưu
thế về đạo đức của thế kỷ 21 đối chọi với tiêu chuẩn đạo đức được coi là yếu
thế của thế kỷ 19.
Thế
kỷ hiện nay của chúng ta cũng chẳng có nhiều hơn cái gọi là đạo đức tuyệt mỹ
như những thế kỷ đã qua. Và trong thế kỷ này các đại cường cũng không hề trong
trắng hơn khi bị lôi kéo vào những xung đột như trong các thế kỷ khác. Tất cả
đều ích kỷ, tất cả đều thoả hiệp về đạo đức. Thực tế là như vậy – một quốc gia
càng hùng mạnh bao nhiêu thì càng dễ có xu hướng hành xử chẳng có gì là phù hợp
với các giá trị đạo đức của Cơ đốc giáo hay là của thời Khai sáng.
Ai
có thể khẳng định được rằng việc bảo vệ trật tự thế giới vị tự do là nhất thiết
đúng đắn? Người ta chưa bao giờ cho nhân dân toàn thế giới bỏ phiếu tán thành
hay phản đối một trật tự thế giới vị tự do. Trật tự này không phải là do Chúa
tạo ra. Nó cũng không phải là điểm kết thúc của tiến bộ loài người.
Nó chỉ là
một trật tự thế giới tạm thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích và trước hết là lý tưởng
của một bộ phận đông đảo và hùng mạnh, chứ không nhất thiết phải là đòi hỏi và
mong muốn của tất cả mọi người. Chủ nghĩa cộng sản có thể là đã phá sản, nhưng
tư tưởng toàn trị và các nhà nước chuyên chế vẫn còn. Và không phải là dân chủ,
mà chính sự chuyên chế mới là cái đã từng là thước đo trong lịch sử loài người.
Trong
những thập niên vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Mỹ và châu Âu, dân chủ đã có sức
mạnh để xây dựng thế giới theo những ý tưởng của mình. Nhưng ai dám nói rằng
Chủ nghĩa Putin ở Nga hay là dạng thái đặc biệt của chuyên chế tại Trung Quốc
sẽ không có khả năng tồn tại lâu đúng như nền dân chủ châu Âu, cái mà ở ngoài
nước Anh ra thì cho đến nay mới có nhỉnh hơn 100 năm tuổi? Đối với một quốc gia
mệt mỏi về quyền lực thì điều này là một câu hỏi làm rối trí.
Nhà nghiên cứu
chính trị Hans Morgenthau có lần đã nhắc nhở rằng người Mỹ có lẽ “sẽ rất thích
thú với ảo tưởng là một quốc gia… sẽ thoát khỏi sách lược quyền lực”, rằng sẽ
đến lúc “tấm màn kết thúc sẽ được kéo xuống và trò chơi quyền lực sẽ không còn tiếp
diễn”. Suy nghĩ trốn tránh thực tế này đã có một đồng vọng rộng lớn vào những
năm cuối thời Chiến tranh Lạnh. Năm 1989 Fukuyama tuyên bố với người Mỹ rằng,
với sự cáo chung của lịch sử thì “nền dân chủ vị tự do sẽ không còn đối thủ ý
thức hệ nào cần phải chú ý”.
Tiến bộ dân chủ là không thể tránh khỏi, và vì
vậy, người ta không còn cần phải làm bất cứ gì để thúc đẩy và bảo vệ nó. Trong
thời đại mới, cái mà nước Mỹ cần là cắt giảm quyền lực cứng (hard power) và
tăng cường quyền lực mềm (soft power).
Đó
là suy nghĩ chủ đạo, ít nhất là từ cuối thời Chiến tranh Lạnh cho tới năm 2008
và cho tới khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính. Đó là lúc xảy ra sự chuyển
đổi mô hình. Bây giờ không phải là hồi kết của lịch sử, mà là hồi kết của nước
Mỹ, hồi kết của phương Tây.
Khúc khải hoàn đã nhường chỗ cho học thuyết thoái
trào. Nếu như trước đó người ta cho rằng việc nước Mỹ dùng sức mạnh của mình để
hướng dẫn thế giới vào một trật tự nhất định là không cần thiết, thậm chí là
sai trái, thì ngày nay đột nhiên người ta thấy rằng điều đó không còn có khả
năng xảy ra, vì Hợp chúng quốc đã không còn đủ sức.
Các quan chức cao cấp trong
chính phủ Mỹ, đặc biệt là giới trẻ, cho rằng trong cuộc xung đột tại Syria, Mỹ
đã bị trói buộc chân tay quá nhiều. Đây là một bài học cho thế hệ của họ, bài
học từ Iraq và Afghanistan: rằng Mỹ không còn sức mạnh, không còn sự hiểu biết,
và cũng không còn cả khả năng giải quyết các vấn đề của thế giới.
Nhưng
chính quan điểm cho rằng những hoạt động quốc tế chỉ là vô bổ lại cất giấu
trong lòng nó một huyền thoại. Qua cặp kính màu hồng, chúng ta nhìn lại Chiến
tranh Lạnh và tưởng tượng rằng nước Mỹ lúc đó đã dễ dàng thúc đẩy các quốc gia
khác làm những gì mà Mỹ muốn. Nhưng nếu bỏ sang một bên những thành công, thì
trong Chiến tranh Lạnh, sách lược ngoại giao của Mỹ cũng đã phạm phải hàng loạt
những lỗi lầm, những xuẩn ngốc, nhiều tai nạn và cả một số thảm họa theo đúng
nghĩa. Ngay từ đầu, các đồng minh của Mỹ đã tự chứng tỏ là họ thích gây rối,
hay hờn dỗi và luôn bướng bỉnh. Phải chăng giới chiến lược gia của ngày hôm nay
thật sự nghĩ rằng những người tiền nhiệm của họ trong các chính phủ trước đây
có nhiều thuận lợi hơn họ?
Đường
lối ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào cũng thường thất bại nhiều hơn thành
công. Ngay cả những cố gắng tác động vào hành xử của dân chúng trong nội địa
cũng đã rất khó khăn. Vậy thì việc gây ảnh hưởng lên những dân tộc khác, quốc
gia khác mà không lạnh lùng hủy diệt họ đương nhiên phải là một công việc khó
khăn nhất của loài người. Điều chắc chắn trong ngoại giao – nó cũng chắc chắn
như sự tồn tại của loài người chúng ta, là tất cả những hành động giải quyết
các vấn đề chỉ có thể làm nẩy sinh ra những vấn đề mới. Và điều này có giá trị
cho mọi cuộc chiến tranh.
Không có một cuộc chiến nào có kết cục hoàn hảo, ngay
cả những cuộc chiến có những lý cớ tốt đẹp nhất cũng như vậy. Tiêu chuẩn cho
một chiến thắng không nằm ở chỗ là kết quả cuối cùng có đáp ứng 100 % ước vọng
ban đầu hay không, mà là liệu kết quả không ưng ý đã đạt được tốt hơn hay xấu
hơn so với cái kết quả sẽ có nếu không có hành động. Việc chỉ chú tâm vào những
kết quả phục vụ những mục tiêu tối đa với tốn phí tối thiểu là một biểu hiện
của tâm thức trốn chạy thực tế.
Thực
tế cho thấy người Mỹ ngày nay có vẻ như bị quá tải trước sự phức tạp của thế
giới. Họ mong muốn được quay trở lại vị trí “vô tội của người vô trách nhiệm”
như nhà thần học Mỹ Reinhold Niebuhr có lần đã nói, hay ít nhất cũng là có được
một vị trí bình thường để nước Mỹ có thể giảm thiểu mức độ đóng góp cho thế
giới. Với phương cách đó, nước Mỹ có thể sẽ quay trở về không khí của những năm
20.
Tuy nhiên, ở đây có một điều khác biệt: Trong những năm 20 người Mỹ tin là
Anh quốc và châu Âu có trách nhiệm bảo vệ cái trật tự thế giới mà họ đã tạo ra.
Còn bây giờ, liệu người Mỹ có hiểu ra rằng lần này chỉ có họ mới có khả năng
giữ vững trật tự thế giới đó?
Khi
Tổng thống Obama mới nhậm chức, Peter Baker đã viết trên tờ New York
Timesrằng Obama muốn “tiếp nhận một thế giới như nó đang hiện hữu chứ không
phải như người ta có thể mong muốn”. Đó chính là gốc rễ của cái điệp khúc mà
các đại diện của nội các Obama luôn luôn đưa ra để giải thích tại sao Tổng
thống lại chống việc tiến hành các hoạt động tại nơi này hay nơi kia trên thế
giới để phấn đấu cho một “lý tưởng” đáng mơ ước nhưng khó thực hiện. Có vẻ như
càng ngày càng ít người hiểu được rằng, đối với người Mỹ và nhiều người khác,
70 năm qua là một thời hạn ân huệ của chính cái thế giới “đang hiện hữu”.
Giai
đoạn hòa bình và thịnh vượng có thể làm cho con người quên mất bản chất thật sự
của cái thế giới “đang hiện hữu”; nó cũng ru ngủ con người với lòng tin là loài
người đã đạt đến một cấp bậc sinh tồn cao hơn. Người ta công bố những kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy đã đến “giai đoạn chuyển hóa của các quan hệ
quốc tế”, và “sự thay đổi biên giới bằng vũ lực” đã giảm mạnh “kể từ năm 1946″.
Nhưng
liệu có phải ngẫu nhiên mà trào lưu đáng phấn khởi như trên đã xuất hiện sau
khi trật tự thế giới kiểu Mỹ được tạo dựng sau Thế chiến thứ hai? Thật ra thì
thế giới – như nó “đang hiện hữu”, là một nơi đầy nguy hiểm và nhiều khi rất
tàn bạo. Hành xử của con người, và cả các quan hệ quốc tế, về cơ bản cũng chẳng
có nhiều thay đổi.
Ngay cả trong thế kỷ 21, vũ lực vẫn là phương tiện cuối
cùng. Vấn đề được đặt ra không phải là các quốc gia có sẵn sàng sử dụng vũ lực
hay không, mà là các quốc gia đó nghĩ rằng, nếu sử dụng vũ lực thì họ có bị
trừng phạt hay không. Khi Vladimir Putin thấy rằng không thể đạt được những mục
tiêu của mình tại Ukraine bằng phương tiện chính trị và kinh tế, ông ta đã dùng
đến vũ lực vì tin rằng mình có thể làm như vậy.
Chừng nào vẫn còn tin rằng hiệu
quả cao hơn cái giá phải trả khi dùng vũ khí, ông ta sẽ tiếp tục sử dụng vũ
lực. Suy tính này cũng không có gì đặc biệt. Trong cách nhìn như vậy, liệu
Trung Quốc sẽ làm tất cả những gì nếu như họ không bị ngăn cản bởi một hàng rào
nhiều cường quốc được sự hỗ trợ của Mỹ? Và cũng trong mối liên quan này: Nhật
Bản sẽ làm gì nếu như nó sẽ mạnh lên nhiều và ít phụ thuộc hơn vào nước Mỹ?
Hiện tại chúng ta chưa phải tìm trả lời cho câu hỏi này vì với vị thế thống
lĩnh của Mỹ, chiếc hộp thần tai họa của Pandora vẫn còn được giữ kín.
Hệ
thống thế giới là một đan kết chặt chẽ của các tương quan sức mạnh, trong đó
mỗi một quốc gia – từ lớn nhất cho tới nhỏ nhất, luôn phải ghi nhận một cách
tinh vi những biến động và quấy rối. Từ 1945, và nhất là từ 1989, mối đan kết
này đã được tạo ra để choàng vào nước Mỹ.
Các đồng minh quan sát thái độ của Mỹ
và tìm cách đánh giá độ tin cậy của nó. Các quốc gia cảm thấy bị Mỹ chèn ép hay
đe dọa thì soi tìm những chỉ dấu tăng giảm về sức mạnh và quyết tâm của nó. Và
khi nước Mỹ có vẻ như lùi bước, thì các đồng minh của nó an lòng trong khi các
quốc gia khác hoan hỉ chờ cơ hội.
Trong
những năm qua, thế giới đã tiếp nhận những tín hiệu cho thấy người Mỹ không còn
muốn tiếp tục gánh vác trên vai sức nặng của trách nhiệm toàn cầu. Mới đây, khi
nói về chuyện tiến quân vào Syria, Tổng thống Obama tuyên bố: “Đó không có
nghĩa là việc này không đáng làm. Nhưng sau một thập niên chiến tranh, nước Mỹ
đã tiến tới giới hạn của mình.”
Đến
hôm nay thì những chỉ dấu sụp đổ của trật tự thế giới đã xuất hiện ở khắp nơi.
Khi Nga tiến quân vào Ukraine và thâu tóm Krym, thì đây là lần đầu tiên kể từ
sau Thế chiến hai, một quốc gia châu Âu đã xâm chiếm lãnh thổ của nước khác.
Nếu Iran chế tạo bom nguyên tử, các nước khác bắt buộc phải làm theo. Iran,
Saudi Arabia và Nga tiến hành chiến tranh uỷ nhiệm tại Syria, giết hại cho đến
nay là 150.000 người và làm cho hàng triệu người phải phiêu bạt. Và những sự
kiện mới đây tại Syria và Iraq đang làm tăng khả năng hình thành một nhà nước
Thánh chiến Hồi giáo tại trung tâm Cận Đông, một nhà nước không chấp nhận biên
giới.
Nếu trào lưu này tiếp diễn thì trong tương lai gần, chúng ta sẽ có nhiều
chiến tranh về lãnh thổ hơn, nhiều bạo lực vì sắc tộc và tôn giáo hơn, và sẽ
nhìn thấy một thế giới vị tự do càng ngày càng thu hẹp.
Câu
hỏi là nước Mỹ phải phản ứng ra sao. Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót khi Syria vẫn
ở trong tay của Assad hay – có khả năng hơn, là Syria sẽ bị phân rã và trong
vòng hỗn loạn, quân Thánh chiến sẽ kiểm soát thêm nhiều vùng đất mới?
Liệu nước
Mỹ sẽ còn sống sót nếu như Iran có trong tay bom nguyên tử và để đáp lại thì sẽ
xuất hiện những quả bom như vậy tại Saudi Arabia, tại Thổ Nhĩ Kỳ và tại Ai Cập?
Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót trong một thế giới mà trong đó nước Nga thống lĩnh
Đông Âu, không phải chỉ là ở Ukraine, mà ở cả vùng Baltic và có thể là cả Ba
Lan?
Tất
nhiên là nước Mỹ có thể còn sống sót. Có thể việc can thiệp thực tế là không
bức thiết. Nước Mỹ vẫn có thể làm ăn buôn bán với một Trung Quốc nắm quyền
thống lĩnh và cũng có thể tìm thấy một phương thức thỏa thuận chung sống với
một đế quốc Nga tái hùng cường.
Rồi sẽ như trong quá khứ, người Mỹ sẽ là những
người cuối cùng phải chịu nỗi đau khi trật tự thế giới sụp đổ. Và khi họ thực
sự cảm nhận được nỗi đau đó thì đã là rất muộn.
Nhà
nghiên cứu chính trị Mỹ Robert Osgood, có thể được coi là tư tưởng gia chính
trị thực tiễn thông minh nhất của thế kỷ vừa qua, khi nhìn lại thời kỳ trước
Thế chiến hai đã phát hiện ra một điều kinh hoàng: Những định nghĩa thuần thực
dụng về “lợi ích quốc gia” là hoàn toàn không đủ.
Điều nghịch lý là chính những
“người có lý tưởng” đã là những người phản ứng một cách “đặc biệt nhanh nhậy
trước nguy cơ phát-xít đối với văn hóa và văn minh phương Tây”. Lý tưởng chủ
nghĩa là một “động cơ tinh thần không thể bỏ qua để con người có thể nhận ra
những đòi hỏi bắt buộc của một chính sách quyền lực”.
Điều này cũng chính là
thông điệp của Roosevelt khi ông kêu gọi người Mỹ phải đứng lên bảo vệ “không
những nhà cửa đất đai, mà cả lòng tin và tình người của họ”.
Có
lẽ người ta lại phải khuyến khích người Mỹ làm như vậy ngay cả khi không có sự
đe dọa của một Hitler mới. Nhưng lần này nước Mỹ sẽ không có một thời gian dài
20 năm để suy tính và quyết định. Thế giới biến chuyển nhanh hơn sức tưởng
tượng của người Mỹ. Và sẽ không có một siêu cường dân chủ nào khác túc trực
đằng sau sân khấu để cứu vãn thế giới nếu như nước Mỹ, siêu cường dân chủ duy
nhất hiện nay, tỏ ra ngần ngại.
Nguồn: Robert Kagan: ”Die Welt wird zu
gefährlich, wenn Amerika den Führungsanspruch aufgibt“, Spiegel 26/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Việt Vinh &
pro&contra
Tô Văn Trường - Đừng lập lờ, đánh lận con đen!
Thứ Năm, ngày 17 tháng 7 năm 2014
Khi ‘mổ xẻ’ khái niệm
về xã hội hóa liên quan đến chính trị, mới thấy ngôn ngữ của Việt Nam rất khác
người.
Nguyên thủy, khái niệm
xã hội hóa có nghĩa là làm cho cả xã hội được chia sẻ một lợi ích, một hiểu
biết. Xin nhớ cho nguyên thủy khái niệm này không chứa đựng nội dung chia
sẻ trách nhiệm.
Về phương diện này có
thể nói đây là một trong những xuất sứ đầu tiên của tư duy về chủ nghĩa xã hội
hay mang tính Xã hội chủ nghĩa nhưng sau này bản thân khái niệm của CNXH cũng
bị biến tướng, ví dụ như chế độ XHCN như Việt Nam đang có.
Trên mạng xã hội đăng
tải ý kiến phân tích của Anh Hạ Đình Nguyên rất đáng suy ngẫm, nguyên văn
như sau:"GS Đỗ Quang Hưng, thuộc ‘Hội đồng lý luận Trung ương’, đã ‘thông
báo’ một sáng chế từ ngữ mới không giống ai. Thay vì gọi, như loài người đang gọi,
‘Xã hội Công dân’, ‘Xã hội Dân sự’ với nội hàm rất minh bạch, thì gọi ‘Xã hội
Nhân dân’, cũng giống như gọi: đất đai là sở hữu của ‘toàn dân’. Nhân dân =
toàn dân là những từ ngữ được sử dụng một cách bịp bợm. Sự đánh cướp trước hết,
bằng từ ngữ. Cướp đất bằng chữ ‘toàn dân’, nay toan cướp dân chủ bằng chữ nhân
dân. ‘Xã hội nhân dân’, Trời ạ, chỉ có Quỷ Thần mới biết nó ra sao!"
Bàn về khái niệm xã
hội hóa, người bạn chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài nhận xét ngôn ngữ của
Việt Nam rất khác người, không theo chuẩn mực khoa học thế giới, mà chỉ mang
tính ‘thủ thuật’ chính trị.
Xã hội hóa ở Tây
phương theo nghĩa tổng quát là làm sao cho mọi con người trong xã hội chia sẻ
cùng một tập tục, tập quán, ý thức hệ, đạo đức, và có khả năng sống và làm việc
trong xã hội.
Điểm sau đưa đến quan
điểm giáo dục phổ thông miễn phí để mọi người lớn lên có khả năng sống và lao
động tối thiểu. Theo nghĩa kinh tế, thì là cùng chung nhau làm chủ phương
tiện sản xuất (như Marx nói) hay chung nhau những gì không thể tư hữu hóa như
xây đường, cầu cống, quốc phòng, an ninh công cộng. (Theo
en.wikipedia.org/wiki/socialization)
Chữ xã hội hóa ở Việt
Nam đã bị biến chất thành tư nhân hóa. Xã hội hóa giáo dục hay y tế là mọi
người tự bỏ tiền mà lo.
Chính trị là gì? đó là
biện pháp hay lý thuyết nhằm tạo ảnh hưởng với cá nhân hoặc tập thể người dưới
góc nhìn tư cách công dân. Chính trị hóa (vấn đề như khoa học, tôn giáo)
là gì? Đó là thủ thuật lạm dụng một vấn đề gì đó để đạt lợi ích chính trị.
(Theo en.wikipedia.org/wiki/Politics)
Xã hội hóa chính trị
theo đúng nghĩa thì đúng là mọi người được quyền làm chính trị. Tôi vẫn phải
nhấn mạnh lại hiện nay với cách đang dùng ở Việt Nam, khái niệm ‘xã hội hóa’ có
hàng trăm cách hiểu và bị lạm dụng một cách ghê gớm, trốn tránh hay che đậy
nhiều sự thật.
Trong bài viết ‘Đẳng
thức của chính trị và xã hội hoá’ (Trên Nguoi Viet Online, ngày 28 tháng Năm,
2014), tôi đề cập đến vấn đề xã hội ổn định cần thống nhất lợi ích. Ngẫm suy
vẫn chưa thật ổn, vì bất cứ một xã hội nào cũng có nhiều tầng lớp và lợi
ích khác nhau, do đó muốn ổn định thì phải bảo đảm cho mọi người có thể tranh
đấu cho lợi ích của mình một cách chính đáng nhưng ôn hòa. Và xã hội chỉ ổn
định khi các tầng lớp trong xã hội có thể thỏa hiệp (compromise) với nhau.
Nếu chỉ cốt thắng tới cùng
thì sẽ đưa tới xung đột, một bên thắng, một bên thua và tất nhiên là hoặc tan
rã hoặc đưa tới tầng lớp cai trị và tầng lớp bị trị.
Như vậy, có thể kết
luận rằng ngôn từ của Việt Nam rất khác người, nhất là khi gặp phải một số vị
lãnh đạo cấp cao do tư duy, năng lực hạn chế, hay chỉ biết nhìn vào ‘cái ghế’
của mình thì thủ thuật chính trị biến trắng thành đen, biến tư tưởng đẹp đẽ của
của chữ xã hội hóa thành tư nhân hóa!
Xã hội hóa ở nước ta
bây giờ là cái bao cao su cho bất kỳ con đực nào muốn làm bậy mà bản thân vẫn
sach sẽ và tránh được mọi trách nhiệm. Còn bất kể việc gì cần đóng góp của xã
hội để san xẻ gánh nặng thì cứ nên gọi đúng tên của sự việc, đừng lập lờ, đánh
lận con đen.
Huy Ðức - Đã đến lúc nhìn lại để thấy dân đã có "tự do,
hạnh phúc" hay vẫn xơi bánh vẽ.
Thứ Tư, ngày 16 tháng 7 năm 2014
Trên nhiều phương
diện, hơn hai tháng rưỡi Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào vùng biển Hoàng Sa,
với Việt Nam cũng có ý nghĩa như câu chuyện "tái ông mất ngựa". Sáng
3-5-2014, tôi viết: Trung Quốc giả mặt "láng giếng tốt, đồng chí tốt"
mới nguy chứ họ hành xử đúng như tâm địa của họ thì phải coi đó là cơ hội.
Giàn khoan 981 đã làm
thay đổi cách ứng xử của Hà Nội với các vấn đề liên quan tới Trung Quốc,
cả những điều chúng ta có thể chứng kiến (cách phát ngôn của các nhà lãnh đạo;
đưa nhà báo ra chứng kiến những đụng độ trên Biển Đông...) và cả thái độ bên
trong phòng họp (cho dù cách hành xử trước công chúng có khác nhau, không có sự
khác nhau đáng kể ở cấp cao nhất về đối sách đối với Trung Quốc).
Giàn khoan 981 giúp bạch hóa các vấn đề lịch sử: Từ sự kiện Chu Ân Lai "vạch vĩ tuyến 17" trong Hội nghị Geneva tới cuộc chiến đẫm máu gần đây hơn ở Vị Xuyên; Từ chuyện công khai nhìn nhận chính thể Việt Nam Cộng hòa đến thái độ với những người lính chiến đấu ở Hoàng Sa năm 1974.
Cho dù yếu tố pháp lý thế nào, giàn khoan 981 cũng đã giúp người dân Việt Nam biết đến những sai lầm chính trị khó tha thứ như: Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng; Bản đồ và sách giáo khoa của miền Bắc (Địa lý lớp 9, 1974 nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Hoa dưới tên gọi Tam Sa, Tây Sa).
Cho dù 981 rút khỏi vùng biển Việt Nam là do bão hay do nó đã "hoàn thành nhiệm vụ" như cách nói của Tân Hoa xã thì đó vẫn là một tin tốt.
Thay vì cứ trút hết bức xúc ra giàn khoan, người dân Việt Nam cần phải quay về, đối diện với những vấn đề của chính mình. Thay vì chỉ đánh bóng tên tuổi bằng vài lời tuyên bố làm sướng tai dân, các nhà lãnh đạo phải thế hiện năng lực và trách nhiệm của mình bằng chính sách.
Đành rằng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ là vô giá. Nhưng, như Hồ Chí Minh có nói: "Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa". Sau 69 năm giành độc lập bằng xương máu của hàng triệu con dân. Đã đến lúc nhìn lại để thấy dân đã có "tự do, hạnh phúc" hay vẫn xơi bánh vẽ.
Đành rằng trên nhiều phương diện, Việt Nam phải "thoát trung". Nhưng, thoát thực dân ngoại bang để ngoan ngoãn với thực dân nội địa thì cũng hoàn toàn vô nghĩa.
Giàn khoan 981 giúp bạch hóa các vấn đề lịch sử: Từ sự kiện Chu Ân Lai "vạch vĩ tuyến 17" trong Hội nghị Geneva tới cuộc chiến đẫm máu gần đây hơn ở Vị Xuyên; Từ chuyện công khai nhìn nhận chính thể Việt Nam Cộng hòa đến thái độ với những người lính chiến đấu ở Hoàng Sa năm 1974.
Cho dù yếu tố pháp lý thế nào, giàn khoan 981 cũng đã giúp người dân Việt Nam biết đến những sai lầm chính trị khó tha thứ như: Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng; Bản đồ và sách giáo khoa của miền Bắc (Địa lý lớp 9, 1974 nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Hoa dưới tên gọi Tam Sa, Tây Sa).
Cho dù 981 rút khỏi vùng biển Việt Nam là do bão hay do nó đã "hoàn thành nhiệm vụ" như cách nói của Tân Hoa xã thì đó vẫn là một tin tốt.
Thay vì cứ trút hết bức xúc ra giàn khoan, người dân Việt Nam cần phải quay về, đối diện với những vấn đề của chính mình. Thay vì chỉ đánh bóng tên tuổi bằng vài lời tuyên bố làm sướng tai dân, các nhà lãnh đạo phải thế hiện năng lực và trách nhiệm của mình bằng chính sách.
Đành rằng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ là vô giá. Nhưng, như Hồ Chí Minh có nói: "Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa". Sau 69 năm giành độc lập bằng xương máu của hàng triệu con dân. Đã đến lúc nhìn lại để thấy dân đã có "tự do, hạnh phúc" hay vẫn xơi bánh vẽ.
Đành rằng trên nhiều phương diện, Việt Nam phải "thoát trung". Nhưng, thoát thực dân ngoại bang để ngoan ngoãn với thực dân nội địa thì cũng hoàn toàn vô nghĩa.
Ha ha ha !
Hố
hố hố !
Không
biết làm thịt em nào trước đây?
xem
thêm
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Vietnam Film Club
6433 Northanna Drive,
Springfield, VA 22150
THÔNG BÁO SỐ 6
Kính
gởi Quý Đồng Hương
Vietnam Film
Club trân trọng giới thiệu Video về Thảm Sát Tại Huế vừa
hoàn tất và đã phổ biến trên Youtube theo các Links dưới đây:
Tập
4: Thảm Sát Tại Huế
hay:
Tập
3: Thảm Sát tại Cai Lậy
hay:
Tập
2: Cải Cách Ruộng Đất
hay:
Tập
1: Nhân Văn Giai Phẩm
hay:
Vietnam
Film Club sẽ
phát hành bộ phim tài liệu này bằng DVD sau khi hoàn tất tập cuối cùng.
Kính
mong Qúy Đồng Hương góp phần xây dựng cho bộ phim này, bằng cách cung cấp
thêm tài liệu, giới thiệu thêm nhân chứng, hoặc cho biết những sai sót
về nội dung, tài liệu, kỹ thuật... để khi chính thức phát hành, cuốn phim đạt
được tính xác thực, hy vọng làm nguồn tài liệu nghiên cứu cho các thế hệ mai
sau.
Mọi
đóng góp xây dựng cho bộ phim này, xin liên lạc: vietnamfilmclub@aol.com
Trân
trọng thông báo và cảm tạ Quý Đồng Hương
Vietnam
Film Club
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching