Gián Điệp
Tàu – Yudhijist Bhattacharjee
Đăng trong: Tháng Năm 23, 2014 | Tác giả: muoisau | Filed
under: Human
Right | Tags: Bài Đọc Hay | 1
phản hồi
Bài đọc suy gẫm: Tuần qua, cơ quan FBI
Hoa Kỳ tố cáo và kết án 5 tin tặc Trung Cộng thâm nhập các hãng tư, ăn
cắp kỷ thuật và bí mật nội bộ thương mại. Nhân câu truyện còn thời sự râm
ran, Blog 16 hân hạnh trích đăng bài điều tra của Yudhijist Bhattacharjee
“Bằng cách nào Trung Cộng lấy được những bí mật kỹ thuật của Mỹ?” hay “Gián
Điệp Tàu”. Người dịch Nguyễn Minh Tâm. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Ngày 1 tháng Hai năm 2003, khi phi thuyền
con thoi Columbia rơi trên không trung, ông Greg Chung đang ngồi ở nhà.
Con trai của ông gọi điện thoại báo tin cho bố biết về tai nạn này. Chiếc phi
thuyền bị vỡ tung trên đường trở về Trái đất, và bảy phi hành gia trên phi
thuyền bị chết hết.
Ông Chung mắng đứa con trai: “Đây không phải là chuyện đùa.
Con đừng có báo tin bậy.” Ông Chung là một công dân Mỹ sinh đẻ ở Trung Hoa. Ông
đang sống với vợ, bà Ling, trong một khu gia cư khá xinh đẹp, ở thành phố
Orange , tiểu bang California .
Ông mới về hưu được chừng vài tháng. Trước khi
về hưu, ông làm việc cho NASA, cơ quan phụ trách Chương Trình Không Gian của
Hoa Kỳ. Ông từng đóng góp vào việc thiết kế phòng lái cho phi hành đoàn trong
chiếc phi thuyền Columbia, chưa kể là ông đã làm nhiều việc khác đóng góp cho
chuyến bay của phi thuyền. Khi biết rõ cậu con trai, Jeffrey, báo tin là đúng.
Ông cúp điện thoại, và ngồi ôm mặt khóc một mình.
Hồi năm 1972, cơ quan NASA giao việc thiết kế,
và thực hiện phi thuyền con thoi cho công ty tư Rockwell làm. Công ty này sau
đó đã bị công ty Boeing mua lại. Trong hơn 30 năm, ông Chung là kỹ sư của công
ty Boeing, làm việc trong nhóm“stress-analysis”, thử sức chịu đựng của vật dụng
thiết kế. Việc làm của ông hết sức tỉ mỉ, và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, thử đi
thử lại không biết là bao nhiêu lần. Nhưng đó lại là việc làm sở trường của ông
Chung. Ông làm việc miệt mài, ít khi nào bỏ sở ra về, thậm chí ông cũng ít khi
nghỉ giải lao. Ông cứ ngồi miết ở máy vi tính, thử đi thử lại đủ mọi loại mô
hình, xem coi chất liệu nào thích hợp để làm vỏ phi thuyền, chịu đựng nổi độ
nóng, và áp suất va chạm vào phi thuyền.
Sau khi phi thuyền Columbia bị nổ tung trên
không trung, cơ quan NASA yêu cầu hãng Boeing thiết kế một phi thuyền con thoi
khác. Ông Chung là nhà thiết kế giỏi nhất trong nhóm. Xếp cũ của ông Chung điện
thoại yêu cầu công ty ký hợp đồng nên mướn ông Chung làm công việc này.
Mặc dù
ông đã ở tuổi 70, song ông hoãn nghỉ hưu, và tiếp tục đi làm. Thế là ông lại
quanh trở về thói quen siêng năng cũ, về nhà trễ ăn cơm tối, sau đó lại ngồi
vào bàn làm việc cho đến khuya. Ông làm việc say sưa không phải vì người ta hứa
thăng chức, hay tăng lương cho ông, mà chỉ vì cái thú làm việc có sẵn trong
người của ông Chung.
Vợ ông, bà Ling, kể lại về thói quen say mê làm việc của
ông. Ông khoe ông đã giúp hãng Boeing tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Ông nói
nhiều về việc làm của ông đến nỗi bà Long phải bực mình, và nói: “Suốt ngày cứ
nói mãi về công ty Boeing của ông. Bộ ông không còn chuyện gì khác để nói với
tôi hay sao?”.
Tháng Tư năm 2006, nhân viên FBI đến gặp ông
Chung tại nhà riêng của ông ở thành phố Orange . Chính tay ông Chung là người
thiết kế căn nhà ông đang ở. Căn nhà có một hàng ba để ông và bà Ling ngồi nhìn
ra vườn hoa lớn phía trước. Ông Chung trồng cây chanh, và cà chua. Hàng ngày
ông hay dùng nước tái dụng để tưới hoa, tưới cây. Hai ông bà có hai người con
trai đã trưởng thành là Shane, cậu con lớn, và Jeffrey, cậu con nhỏ. Hai cậu
con cũng sống ở gần cha mẹ.
Ông Chung dáng người cao, gầy, với khuôn mặt
trầm tĩnh, mở cửa mời khách bước vào trong nhà. Họ mở đầu câu chuyện bằng cách
hỏi thăm ông Chung về một người tên là Chi Mak, bạn của ông Chung. Ông này đã bị
bắt trước đó vài tháng. Chi Mak là người Hoa gốc Hong Kong đến California định
cư vào thập niên 1970, và làm kỹ sư cho công ty Power Paragon, một công ty xây
cất hệ thống phân phối điện lực cho Hải Quân. Từ nhiều năm nay, Trung quốc cố
tìm cách canh tân hạm đội hải quân của họ. Cơ quan FBI nghi ngờ rằng Mak đã
được tình báo Trung quốc huấn luyện, gửi sang Hoa Kỳ để làm
gián điệp.
Sau hơn một năm điều tra, đưa đến việc bắt giữ
Chi Mak, cơ quan FBI nghe lén điện thoại của Chi Mak, và bám sát y để theo dõi
những giao du hàng ngày của Chi Mak. Có một lần trong lúc Chi Mak và vợ đi nghỉ
mát ở Alaska , thám tử Mỹ lẻn vào nhà lục soát suốtđêm. Họ cố gắng không để lại
một dấu vết nào, thậm chí màng nhện ở phòng khách họ cũng cố tình giữ nguyên.
Vào trong nhà, họ chụp hình hàng trăm tài liệu liên quan đến hoạt động của Chi
Mak. Trong đó, có cuốn sổ ghi điạ chỉ, số điện thoại người quen của Chi Mak,
vài người là kỹ sư Mỹ gốc Hoa. Một trong những người này là Greg D. Chung.
Ông Chung tên viết theo tiếng Hoa là Dougfan
Chung, sang Hoa Kỳ định cư từ hơn 40 năm trước. Ông Chung cho FBI biết ông và
bà Ling vợ ông thỉnh thoảng có đi ăn cơm Tàu chung với Chi Mak. Vì Chi Mak là
kỹ sư ngành điện, còn ông Chung là kỹ sư ngành cấu trúc, nên hai người ít khi
bàn chuyện công việc làm với nhau. Nhân viên FBI cám ơn ông Chung rồi ra về. Họ
tìm được vài tin tức hữu ích, song không có tin gì quan trọng, hay ông Chung
không làm điều gì sai trái cả.
Vài tuần sau, nhân viên FBI lại lục soát nhà của
Chi Mak lần nữa. Kỳ này họ bắt gặp một lá thư viết bằng tiếng Hoa trong mớ giấy
báo cáo hàng tháng của ngân hàng. Lá thơ mang nhãn hiệu một khách sạn ở Bắc
Kinh, do Gu Wei Hao viết. Ông Gu Wei Hao là một quan chức cao cấp trong Bộ Hàng
Không của Trung Quốc. Lá thư đó không phải gửi cho Chi Mak, mà là gửi cho
Lingjia và Dongfan Chung.
Trong lá thư, và sau này còn thêm một số thư
khác, viên chức cao cấp họ Gu nhờ ông Chung thu thập tài liệu để giúp Trung
quốc thực hiện chương trình không gian của họ. Chính phủ Trung quốc mới bắt đầu
kế hoạch xây dựng trạm không gian đặt trên qũi đạo trái đất, và Gu đang tìm
cách thu thập tin tức kỹ thuật để giúp thực hiện kế hoạch này. Lá thư của Gu
viết cho ông Chung nói rõ: “Tất cả chi phí thu thập, hay cần phải mua tin tức,
chúng tôi sẽ cử người đích thân trả bằng tiền mặt, và ông có quyền đem tiền ra
khỏi nước một cách an toàn.”. Gu còn mời ông Chung sang Quảng Châu, và tổ chức
buổi họp mặt “trong khung cảnh giới hạn, ít người”, “rất an toàn” để có thể
cùng bàn luận về những vấn đề kỹ thuật.
Vì ông Chung là công dân Mỹ, nên Gu đề
nghị ông nên làm đơn xin chiếu khán du lịch, với lý do là đi thăm bà con ở
Trung quốc. Gu kết luận ở phần cuối lá thư: “Đây là niềm vinh dự và may mắn cho
Trung quốc khi ông nhận thức rằng ông nên đem tài năng, trí tuệ của ông phục vụ
đất nước.”
TỪ NAY ÔNG CHUNG LÀ KẺ BỊ
TỪ NAY ÔNG CHUNG LÀ KẺ BỊ TÌNH NGHI LÀM GIÁN
ĐIỆP CHO TRUNG QUỐC.
Cơ quan FBI bắtđầu mở cuộc điều tra, đặt dưới sự điều động
của một thám tử tên là Kevin Moberly. Người thám tử có dáng dấp thể thao, mạnh
khoẻ, khoảng trên 40, tóc điểm vài sợi bạc, dưới cằm để một chòm râu được chăm
sóc khá kỹ. Khoảng 2 giờ sáng mộtđêm trong tháng Tám năm 2006, ông Moberly ngồi
bật dậy, thay quần áo ra khỏi nhà.
Ông cùng một thám tử khác tên là Bill
Baoerjin lái xe đến thành phố Orange . Họ đậu xe trên đường Grovewood Lane, cách
nhà ông Chung chưa đầy 100 yards. Họ ngồi yên trong xe khoảng chừng 20 phút,
quan sát khu xóm xung quanh, và để cho đôi mắt quen dần với bóng tối. Sau đó họ
dùng đèm bấm có dụng cụ đặc biệt che bớt ánh sáng, đến lục tìm tòi trong hai
thùng rác trước cửa nhà ông Chung. Họ thấy một chồng báo Hoa văn. Họ ôm hết cả
chồng báo đem về văn phòng.
Kẹp vào giữa chồng báo là những tài liệu kỹ
thuật của công ty Rockwell và Boeing. Thám tử Moberly trước đây đã từng làm sĩ
quan tình báo bên Không quân, vì thế ông nhận ra ngay những chữ viết tắt như
“O.V”, tức Orbital Vehicle, và “S.T.S”hay Shuttle Transportation System đều là
những tài liệu kỹ thuật liên quan đến phi thuyền không gian. Không có bằng
chứng nào cho thấy ông Chung muốn trao những tài liệu kỹ thuật này một cách bí
mật. Việc ông làm chỉ mang hình thức vứt bỏ những tài liệu kỹ thuật cũ có sẵn
trong nhà, vì ông sợ bị vạ lây sau khi vụ bắt giam Chi Mak được loan tin từ vài
tháng nay.
Một tuần sau, thám tử Moberly và Baoerjin quanh
trở lại lần nữa để tìm kiếm. Lần này một người hàng xóm tình cờ lái xe đi
ngang, khiến cho hai điệp viên phải ngồi thụp xuống, núp sau hai thùng rác cao.
Ông Moberly thấy việc lục lọi thùng rác coi bộ rủi ro nhiều quá, ông quyết định
nhờ công ty xe rác hợp tác. Trên đường lái xe rác đến trung tâm chế biến rác,
xe vận tải sẽ ngưng ở một điểm hẹn đểnhóm FBI hốt hết rác nhà ông Chung đem về
nghiên cứu. Trong tuần lễ kế tiếp, ông Chung đẩy thùng rác ra trước cửa
nhà vào lúc trời vừa hừng sáng.
Ông đẩy thùng rác nằm kẹt giữa hai thùng “recycle”
mà ông đã kéo ra từ đêm hôm trước. Sau đó, ông đứng núp sau bụi cây quan sát
một lúc, trước khi ông bước vào trong nhà. Khi nhân viên FBI thu hồi được vật
liệu trong thùng rác nhà ông Chung, họ tìm thấy khoảng 600 trang tài liệu kỹ
thuật của công ty Boeing, với đầy đủ hình ảnh rõ ràng. Lâu lâu trên trang giấy
còn đóng con dấu: “tài sản riêng của công ty” hay “tài liệu mật, cấm trao đổi.”
Tháng Chín, ông Moberly đến nhà ông Chung cùng
với một đồng nghiệp tên là Gunnar Newquist. Ông này là điều tra viên hình sự
của Hải Quân. Hai người đến đây để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Hai thám tử
ngồi ở ghế sofa màu trắng, còn ông Chung ngồi ở bàn uống cà phê đối diện. Ông
Moberley mở đầu câu chuyện bằng việc hỏi thăm tin tức liên quan đến Chi Mak.
Sau một giờ chuyện vãn, ông tìm cách hướng câu chuyện liên quan đến vị quan
chức Gu Wei Hao làm việc ở bộ hàng không Trung quốc. Ông Chung cho biết quả
thực ông có gặp vị quan chức này trong chuyến đi thăm Trung quốc năm 1985, và
sau đó một vài lần vào đầu thập niên 1990’s.
Ông Moberly đặt câu hỏi: “Ông Gu có bao giờ nhờ
ông làm việc gì hay không? Ông Chung trả lời: “Không.”
Ông Chung đứng dậy, đi vào nhà bếp lấy một ly
nước để uống. Khi ngồi xuống ghế, ông Moberly lôi ra lá thư của ông Gu đặt lên
bàn uống cà phê. Ông yêu cầu ông Chungđọc to lá thư đó lên. Ông Chung dịch lại
lá thư với giọng nói lạc thần, mất bình tĩnh.
Moberly đặt câu hỏi: “Trong nhà của ông có còn
một tài liệu nào khác lẽ ra ông không được cất giữ hay không?” Sau đó, ông ta
đưa cho ông Chung tờ giấy để ký tên cho phép nhân viên FBI lục xét nhà.
Ông Moberly gọi ngay một toán thám tử đứng chờ
phía trước, xông vào thực hiện công việc lục soát nhà của ông Chung. Bà Ling
lúc đó vừa về đến nhà, dắt theo đứa cháu trai. Cả ba đứng lặng yên xem hàng
chục thám tử lục lọi từng khe ngách nhỏ của căn nhà, trên khoảng đất rộng gần
một mẫu tây.
Ở dưới bao lơn phía sau căn nhà, một thám tử tìm
thấy một cánh cửa nhỏ.Cánh cửa được chắn ngang bằng một thanh gỗ. Ông mở cánh
cửa ra, và bước xuống vài bậc thềm, ông khám phá ra một ngõ ngách nhỏ, đủ để
lách mình đi vào, chạy dọc theo chiều dài của căn nhà.
Khúc đầu, ngõ ngách này chỉ đủ cho một người
khom lưng đi vào. Sau đó, mặt đất thoai thoải dốc, và người bước vào có thể
điđứng dễ dàng. Từ trong nhà không có lối đi vào ngã ngách này. Khoảng đất
trông như một basement, hầm nhà trơ trụi, và chỉ có bóng đèn soi đường.
Ở một
bên phòng trống này chồng chất mấy cái nệm giường cũ, xe đạp ba bánh cũ, hay
vài miếng gỗ tạp. Đi tiến thêm về phía trước của căn nhà, đằng sau tấm ván ngăn
sơ sài, là một căn phòng nhỏ, sàn gỗ thô sơ, với nhiều kệ sách. Trên kệ sách có
rất nhiều binder, bìa cứng, đựng hồ sơ.
Người nhân viên dẫn ông Moberly đi xuyên vào ngõ
hẹp để cho ông thấy những binder này.
Trong những binders đó chứa rất nhiều tài liệu
qúi liên quan đến việc chếtạo các loại máy bay quân sự của Hoa Kỳ như oanh tạc
cơ B-1, máy bay chở hàng C-17, chiến đấu cơ F-15, và trực thăng vận tải Chinook
47 và 48.
Ông Moberly nói với tôi về cảm nghĩ của ông khi bước vào kho tài liệu
này: “Tôi có cảm tưởng như mình vừa đi lạc vào bãi mìn của vua Solomon ngày
xưa.”. Không rõ ông Chung có vi phạm luật nào hay không, nhưng chắc chắn là ông
Chung đã vượt quá lằn ranh của một người sưu tầm tài liệu kỹ thuật.
Ông Moberly cầm đại một binder, chạy vội lên
lầu, đặt lên bàn cà phê cho ông Chung xem.
Ông gằn giọng: “Tại sao ông không
nói cho chúng tôi biết ông có những tài liệu này?”. Ông Chung không trả lời,
quay mặt đi chỗ khác.
Ngay lúc đó điện thoại reo, và ông Chung bước
sang phòng ăn để trả lời điện thoại. Ông Moberly có đem theo một cộng sự viên
duy nhất hiểu được tiếng Quan Thoại, đó là Jessie Murray. Jesse Murray đứng
nghe lóm câu chuyện thì hiểu là ông Chung đang nói chuyện với cậu con trai lớn,
cậu Shane, bằng tiếng Quan Thoại.“Họ sẽ đến nói chuyện với con đó. Họ sẽ hỏi
con về chuyến đi Bắc Kinh của trường con.”.
Chuyến đi đó xảy ra vào năm 1985,
và ông Chung đã gặp Gu Wei Hao, viên chức cao cấp của Bộ Hàng Không. Ông Chung
dặn con: “Con cứ nói với họ là con quên hết rồi. Chỉ nói vắn tắt là con không
biết.” Nghe đến đây, ông Murray giật điện thoại khỏi tay ông Chung và cúp máy
ngay, cảnh cáo ông Chung rằng ông ta có thể can tội cản trở công lý, một tội
rất nặng.
Cuộc lục soát nhà ông Chung tiếp tục, kéo dài
suốt một ngày. Điều tra viên tìm thấy một số tài liệu đã bị đốt, và nhiều hồ sơ
khác còn để trong phòng làm việc của ông Chung ở trên lầu. Đến chiều tối, họ
khuân đi hơn 150 thùng tài liệu. Trước khi rời khỏi nhà ông Chung, ông Moberly
gặp cậu con cả Shane ở lề đường trước cửa nhà xe. Cậu ấy than: “Bố tôi còn nặng
lòng với cố quốc quá. Ông cụ cần phải suy nghĩ lại về lòng trung thành với
Trung quốc.”.
ÔNG CHUNG SINH RA TRONG MỘT NGÔI LÀNG NHỎ ở tỉnh
Laoning, một tỉnh nhỏ vùng đông bắc Trung quốc. Khi còn nhỏ ông là một cậu bé
nhút nhát, chỉ thích sưu tầm đồ chơi nho nhỏ: tem cổ, đá lạ, hay nắp hộp kem
đánh răng. Cha mẹ của cậu là Phật tử thuần thành. Ông bà dạy con phải quí trọng
thiên nhiên, cây cỏ. Cậu bé tỏ ra say mê tìm hiểu về hoa cỏ, cây cối, và cậu
rất bất bình khi thấy những đưá trẻ cùng lứa tuổi bóp chết hàng đàn kiến nhỏ.
Trong thời Thế Chiến Thứ Hai, khi đoàn quân Nhật
đang tiến vào các tỉnh phía đông, gia đình họ Chung phải bỏ làng mạc, cùng với
hàng triệu người Hoa khác, đi lánh nạn. Trên đường chạy về phương nam, họ phải
tạm dừng chân vì có cuộc giao tranh bằng súng lớn. Gia đình họ Chung phải trốn
trong ruộng bắp. Một nông dân tử tế giúp họ Chung cho vào nhà tá túc, và nấu
cháo bắp cho ăn. Gia đình đó không nhận tiền đền đáp của họ Chung. Lúc đó cậu
bé Chung mới được tám tuổi, và cậu vẫn nhớ mãi nghĩa cử cao đẹp của gia đình
nông dân này.
Cha của ông Chung là một kỹ sư công chánh, làm
việc trong bộ hoả xa. Ông là người theo phe Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1946, khi
phe Mao Trạch Đông dành được quyền kiểm soát toàn thể lục điạ Trung Hoa, gia
đình họ Chung phải bỏ chạy sang Đài Loan. Tại đây phe nước Trung Hoa Dân Quốc,
hay phe Quốc Dân Đảng thành lập chính phủ lưu vong. Kể từ đó có hai nước Trung
Hoa – Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, do Đảng Cộng Sản cai trị, và Trung Hoa Dân
Quốc ở Đài Loan. cả hai đều tự nhận mình mới là người đại diện cho quyền lợi
của dân Trung Hoa. Thống chế Tưởng Giới Thạch, nhà độc tài quân sự của Đài Loan
tung ra rất nhiều kế hoạch tuyên truyền, nhồi sọ trẻ nhỏ ở Đài Loan. Giống như
các học sinh nhỏ tuổi khác, Chung đã được dạy phải phỉ nhổ vào chế độ của Mao
Trạch Đông. Nhưng ở sâu trong tâm khảm, chú bé vẫn tự hào mình là người Trung
Hoa, và qúi mến văn hoá Trung quốc.
Khi còn học trung học, Chung phải theo học những
khoá huấn luyện quân sự bắt buộc. Sau này, cậu có đăng lính vào Lực Lượng Hải
Quân của Đài Loan, với mục đích sẽ giải phóng Hoa Lục thoát khỏi sự cai trị của
Mao. Một người anh em của Chung kểlại rằng chính cha của cậu Chung khuyên con
đi học ngành kỹ sư. Do đó, Chung xin học trường Đại Học Quốc Gia Đài Loan, một
đại học danh tiếng. Sau khi ra trường, cậu Chung được bổ đi làm tại một đập
ngăn nước ở phía bắc Đài Loan. Tại đây, cậu gặp người đẹp Lingjia Wang, một hoạ
sĩ, đang làm cô giáo dạy trong trường mẫu giáo gần đó. Ít lâu sau hai người
thành hôn.
Chung rất say mê ngành kỹ sư, cậu là sinh viên giỏi nhất trong lớp. Nhưng triển vọng tương lai nghề nghiệp của cậu sẽ không đi xa nếu cứ lại Đài Loan. Vì thế, giống như nhiều kỹ sư đồng lứa, cậu mơ một ngày nào đó sẽ sang được Hoa Kỳ học tiếp lên cao. Trong lúc làm việc tại dập nước, cậu chịu khó học tiếng Anh do bà vợ ông cố vấn Mỹ dạy.
Năm 1962, cậu xin được vào học tại trường đại
học Minnesota . Cậu lấy bằng cao học về kỹ sưcông chánh, và được tuyển vào làm
cho hãng Boeing ở Philadelphia . Cậu là một chuyên gia thử nghiệm “stress”
trong Vertical Take-off and Landing Division, phụ trách về sức chịu của thân
máy bay trong giai đoạn cất cánh và hạ cánh. Bà Ling học thêm về Hội hoạ.Vào
thời điểm đó, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, hay Trung Cộng không cho người
dân xuất ngoại. Gia đình họ Chung chỉ có vài người bạn thân là người Hoa, đa sốlà
dân Đài Loan sang Hoa Kỳ định cư. Thú vui của họ là đi thăm bảo tàng viện ở New
York , đi nghỉ mát ngoài bờ biển tiểu bang Delaware , và bắt cua về ăn chung
với nhau.
Một trong những người bạn thân từ thuở nhỏ của
ông Chung là Thomas Xie. Anh ta lúc đó đang là sinh viên ở trường New Mexico
State University . Anh thường liên lạc với Chung qua thư từ. Có lần anh cho
biết anh được nhận vào trường University of Chicago , nhưng thiếu tiền ghi
danh. Hai vợ chồng Chung gửi cho anh Xie hai ngàn đô la, không thắc mắc gì cả.
Anh Xie nói với tôi về ông Chung như sau: “Greg lúc nào cũng tử tế, sẵn lòng
giúp đỡ người khác.”
Bà Ling thì thuộc loại người quảng giao, ưa xã giao hơn ông Chung. Bà muốn có nhiều bạn bè thân quen để giao tiếp. Hai vợ chồng cùng gia nhập Hiệp Hội Người Đài Loan ở điạ phương.
Trong những lần họp mặt với nhau, hai vợ chồng
Chung ủng hộ ý kiến thống nhất hai nước Trung Hoa: Đài Loan và Hoa Lục nên kết
hợp lại làm một. Họ phản đối ý kiến phân chia ranh giới giữa hai khu vực. Bà
Ling còn nói thêm: “Chúng tôi nghĩ rằng cả thế giới nên sống hoà hợp với nhau.
Mọi cuộc xung đột đều vô nghĩa đối với chúng tôi.”. Quan điểm của hai vợ chồng
ông Chung làm cho một số người trong Hội Đài Loan không ưa, bởi vì họ nghĩ rằng
vợ chồng nhà Chung không còn trung thành với Đài Loan như xưa.
Năm 1972, ông Chung làm việc cho công ty
Rockwell. Công ty vừa nhận được hợp đồng chế tạo phi thuyền con thoi đầu tiên
cho cơ quan NASA. Ông Chung dọn sang sống ởmiền Nam California. Khi đó, ông
Chung và bà Ling đã trở thành công dân Mỹ. Con đường công danh, nghề nghiệp của
ông Chung thăng tiến rất mau. Trong khi đó bà Ling cũng khá thành công về mặt
xã hội, và hội hoạ. Hai vợ chồng dự tính sẽ mãi mãi sinh sống tại Hoa Kỳ. Giống
như nhiều người di dân khác, họ cảm thấy thoải mái, hài lòng với ba dạng tịch
khác nhau: Người Hoa, người Đài Loan và người Mỹ.
TRONG SUỐT THỜI GIAN CUỐI THẬP NIÊN 1970’s, nước
Trung Hoa Cộng Sản trải qua nhiều cuộc cải cách to lớn về chính trị, và kinh
tế. Thái độ thù nghịch chế độ cộng sản của hai ông bà Chung giảm bớt đi rất
nhiều. Bà Ling nói với tôi: “Bỗng dưng, cánh cửa mở ra cho chúng ta có dịp giao
tiếp với Trung quốc. Chúng tôi nao nức, tò mò, muốn tìm hiểu về cội nguồn của
mình.”. Họ nhận thấy rằng chế độ Trung Hoa Dân Quốc cũng chẳng lấy gì gọi là
dân chủ hơn chế độ cộng sản. Ông Ching Wang, bạn thân của ông Chung từ hồi
trung học, hiện là giáo sư Hoá học của đại học UC San Francisco, nói với chúng
tôi rằng có sự chuyển hướng trong nếp suy nghĩ của người Đài Loan.
Điều này
cũng dễ hiểu đối với những người đã định cư từ lâu ở nước ngoài, và không có
nghĩa là chúng tôi không còn trung thành với Đài Loan. Ông Wang phân tích:
“Chúng tôi bắt đầu có những tư tưởng nổi loạn. Chúng tôi không còn tin vào
những điều đã được tuyên truyền nhồi sọ vào đầu óc chúng tôi trướcđây.”. Truyền
thông Đài Loan lúc nào cũng mô tả Trung Cộng như một xã hội chậm tiến, mọi rợ.
Nhưng khi xem truyền hình tổng thống Richard Nixon đi thăm Bắc Kinh, chúng tôi
thấy thành phố này cũng khá sạch sẽ, và thịnh vượng.
Thấm nhuần triết lý Phật Giáo, chủ trương “buông
xả” giúp ông Chung dễ dàng tha thứcho những điều xấu xa mà chế độ của Mao Trạch
Đông từng gây ra. Một người em của ông Chung nói: “Trong bà con của chúng tôi
có người đã bị Cộng Sản giết. Nhưng nghĩ cho cùng thì đó là thế hệ cũ. Chúng ta
không thể tiếp tục giữ mãi mối hận thù trong đầu. Anh Greg của chúng tôi cũng
cảm thấy như vậy.”.
Khi họ đến tuổi gần bốn mươi, họ cảm thấy cần
phải truy nguyên về nguồn gốc Trung Hoa trong máu huyết của họ. Bà Ling mạnh
dạn nói: “Phải trở về nguồn mới được. Nếu không chúng ta sẽ giống như trái bí
rợ. Cái đít thì to mà trong lòng chẳng còn trái tim.”
Năm 1976, sau khi đi xem hai nhạc sĩ Trung Hoa
đến biểu diễn ở Los Angeles , ông Chung bèn đi tìm mua một đàn bầu hai giây của
Trung Hoa đem về nhà tập gẩy đàn. Ông Chung và bà Ling bắt đầu sưu tầm những
truyền đơn, tài liệu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Kể cả những tài liệu về
Cách Mạng Văn Hoá, và những bài viết tiếc thương Mao TrạchĐông sau khi Mao
chết. Ông Chung đọc rất kỹ, ghi chép bên lề từng bài viết. Kểtừ thập niên
1950’s, đa số người Hoa ở Hoa Lục đều viết Hoa Văn theo kiểu giảnđơn của Mao
Trạch Đông. Phần lớn người Hoa ở Đài Loan vẫn còn viết Hoa văn theo lối cũ. Ông
Chung và bà Ling sẵn sàng tiếp thu lối viết kiểu mới.
Năm 1976, sau khi Mao chết, đó cũng là thời điểm
kết thúc Cuộc Cách Mạng Văn Hoá, và khởi đầu giai đoạn canh tân của Đặng Tiểu
Bình. Trung quốc gửi rất nhiều phái đoàn khoa học gia và kỹ sư sang các nước
Tây phương. Trí thức Trung Hoa luôn luôn tâm niệm phải “phải dùng khoa học để
cứu Trung Quốc.” Ông Chung theo dõi mọi tiến bộ về khoa học của Trung quốc với
niềm tự hào, hãnh diện. Ông cắt dán, lưu trữ những bài báo, hình ảnh liên quan
đến việc Trung quốc phóng vệ tinh. Và ông cũng bắt đầu đi dự những buổi nói
chuyện của các nhóm học giả, nhà ngoại giao Trung quốc khi họ sang thăm Hoa Kỳ.
Trong một buổi hội thảo năm 1979, ông Chung gặp Chen Len Ku, Giáo sư công nghệ
của Viện Kỹ Thuật Harbin. Ông Chen này đang đi tìm những tài liệu giảng dạy về
“stress analysis”, phân tích sức chịu đựng của vật liệu.
Đề tài này là phạm vi
chuyên môn của ông Chung. Ông Chung về nhà làm photocopy những bản ghi chép hồi
còn học ở University of Minnesota , gửi sang cho ông Chen theo đường biển.
Khi gửi những tài liệu này đi, ông Chung còn
viết một lá thư rất cảm động như sau:“Tôi không biết mình có thể đóng góp được
gì cho tổ quốc. Tôi lấy làm hãnh diện về những thành quả nhân dân ta đã làm
được cho Quê Mẹ. Tôi lấy làm ân hận mình đã không đóng góp được gì nhiều.”.
GIÁO SƯ CHEN ĐEM LÁ THƯ VỀ khoe với đồng nghiệp
ở Harbin . Hẳn là các quan chức cao cấp Trung cộng cũng nghe nói đến chuyện
này. Qua năm sau, ông Chung được mời đến họp tại một khách sạn ở Los Angeles .
Diễn giả chính trong buổi họp này là Gu Wei Hao, quan chức của Công Ty Kỹ Nghệ
Hàng Không Trung quốc.
Đây là một công ty quốc doanh thành lập từ thời thập
niên 1950’s với sự trợ giúp của Nga Xô Viết. Công ty này gần như biến mất khi
quan hệ Trung Xô bị gẫy đổ, bây giờ người ta đang định canh tân lại công ty. Gu
Wei Hao khẳng định Trung quốc cương quyết sẽ học hỏi tìm tòi những kỹ thuật tân
tiến, nhất là trong lãnh vực không gian. Sau khi nghe bài diễn thuyết, ông
Chung nói chuyện khá lâu với Gu.
Trung quốc cần phải cải tiến việc thiết kế khung
máy bay, phi thuyền, và đó là lãnh vực chuyên môn mà ông Chung là chuyên gia,
biết rất rõ. Sau buổi họp này, ông Chung cũng gặp Chi Mak. Tay này đã bắt đầu
sưu tầm tài liệu kỹ thuật cho Trung quốc từ lâu, thế mà ông Chung không hay
biết.
Vào thập niên 1950’s, Đảng Cộng Sản Trung quốc
đưa ra chiến lược qui mô thu thập tin tức. Viện Khoa Học Thông Tin Kỹ Thuật,
thành lập năm 1958, lấy được hàng ngàn tài liệu nước ngoài, đem về dịch sang
tiếng Hoa. Các quan chức cao cấp, học giả Trung Hoa đi Âu Châu và Hoa Kỳ dự hội
nghị khoa học chịu khó ghi chép rất kỹ, nghe ngóng, nghe lén, và thỉnh thoảng
còn ăn cắp cả những tài liệu chưa được xuất bản. Vào khoảng giữa thập niên 1960’s,
chính phủ có khoảng 11,000 tạp chí ngoại quốc, năm triệu bằng khoán trí tuệ, và
vài trăm ngàn phúc trình nghiên cứu kỹ thuật, kể cả biên bản hội nghị, hay
những đề tài trình luận án tiến sĩ.
Chính quyền của Mao Trạch Đông chú trọng vào việc sưu tầm những tin tức có thể ứng dụng cho lãnh vực quân sự. Sau khi Mao chết, Trung quốc mở rộng phạm vi sưu tầm. Đến tháng ba năm 1986, Đặng Tiểu Bình thành lập Chương Trình Nghiên Cứu & Phát Minh Kỹ Thuật Cao Cấp, lấy bí số là 863. Chương trình này đặt ra chỉ tiêu làm việc từng năm, từng tháng, và nhấn mạnh những điạ hạt phải chú trọng gồm có: không gian, sinh học, kỹ thuật laser, kỹ thuật tin học, năng lượng, và nguyên vật liệu mới. Chính phủ đỡ đầu cho các hoạt động nghiên cứu, và lập ra những công ty quốc doanh để chế tạo, hay nhập cảng những kỹ thuật cần thiết.
Chính quyền của Mao Trạch Đông chú trọng vào việc sưu tầm những tin tức có thể ứng dụng cho lãnh vực quân sự. Sau khi Mao chết, Trung quốc mở rộng phạm vi sưu tầm. Đến tháng ba năm 1986, Đặng Tiểu Bình thành lập Chương Trình Nghiên Cứu & Phát Minh Kỹ Thuật Cao Cấp, lấy bí số là 863. Chương trình này đặt ra chỉ tiêu làm việc từng năm, từng tháng, và nhấn mạnh những điạ hạt phải chú trọng gồm có: không gian, sinh học, kỹ thuật laser, kỹ thuật tin học, năng lượng, và nguyên vật liệu mới. Chính phủ đỡ đầu cho các hoạt động nghiên cứu, và lập ra những công ty quốc doanh để chế tạo, hay nhập cảng những kỹ thuật cần thiết.
Khi nào có thể làm được, những công ty này phải
cố tìm ra sản phẩm của công ty Tây phương bằng cách mua lại tài sản trí tuệ,
hay đánh tráo, ăn cắp cho bằng được. Sau khi tất cả những thủ đoạn này làm
không xong, chính phủ sẽ đứng ra yểm trợ cho hoạt động gián điệp. Bộ An Ninh
Nhà nước và cơ quan tình báo quân sự sẽ huấn luyện điệp viên để gửi sang Hoa Kỳ
và các nước Âu châu. Họ cũng tuyển mộ những khoa học gia, kỹ sư, và chuyên gia
sinh đẻ ở Trung quốc hiện đang sống ở hải ngoại, nhất là những người có lý lịch
an ninh trong sạch được làm trong những cơ sở bí mật. Có khi những khoa học gia
này được yêu cầu phải lấy cắp một loại tin tức bí mật nào đó. Song cũng có khi
chính quyền Trung quốc áp dụng chiến thuật “thu thập hàng ngàn hạt cát” ráp
chúng lại thành sản phẩm mong muốn.
Lấy ví dụ trường hợp ông Wang. Ông là giáo sư
danh dự về ngành hoá học dược phẩm. Ông phụ trách nghiên cứu cho công ty dược
phẩm Merck hồi thập niên 1970. Sau khi nghiên cứu về microbes có ở trong đất
nhiều năm, ông Wang và các đồng nghiệp phát minh loại thuốc chống ký sinh trùng
lấy tên là ivermectin. Chỉ ít lâu sau, tin tức về sự thành công của ông Wang
được đăng tải, ông nhận được điện thoại của nhân viên làm cho công ty dược phẩm
quốc doanh ở Mãn Châu mời ông Wang đi sang thăm Trung Hoa, dặn ông đem theo mẫu
microbe dùng để chế ra dược phẩm. Ông Wang nói rằng có lẽ người gọi điện thoại
mời ông đi Trung quốc không hiểu việc họ làm là một điều hỗn láo, rất xấu. Thậm
chí họ còn khinh thường ông bằng cách yếu cầu ông bỏ tiền túi ra mua vé máy bay
mà đi. Ông Wang giận lắm, cúp điện thoại, không thèm trả lời.
Ông Chung thì ngược lại, có thái độ khác hẳn với
ông Wang. Ông Chung hăm hở muốn giúp đỡ Trung quốc. Nói về phương tiện tài
chánh, vợ chồng ông Chung tương đối rất khá giả. Họ có chung cư cho thuê ở
thành phố Alhambra , và một xưởng sửa xe hơi khá phát đạt ở Long Beach . Đấy là
chưa kể hai vợ chống sống rất tằn tiện. Họ cắt tóc cho nhau để đỡ tốn tiềm.
Năm 1984, khi Thế Vận Hội Muà Hè tổ chức ở Los
Angles đang diễn ta, vợ chồng ông Chung là một trong những Hoa Kiều hải ngoạiđược
mời dự yến tiệc cùng với các lực sĩ Trung quốc. Có đôi lần, theo yêu cầu của
Lãnh Sự Quán Trung quốc ở San Francisco, vợ chồng ông Chung nhận lời bảo trợ,
đỡ đầu cho người Hoa mới đến định cư ở California. Ông bà dẫn họ đi mua sắm
những món đồ cần thiết cho cuộc sống, và chở họ đi chợ trong vài tháng đầu mới
định cư.
Tháng Hai năm1985, ông Chung nhận được thư của
quan chức tên là Chen Qi-Nan mời ông đi Trung quốc dự hội nghị “trao đổi kỹ
thuật”. Ông Chen đề nghị ông Chung soạn sẵn tài liệu liên quan đến những vấn đề
kỹ thuật. Trong đó có việc thử sức chịu đựng của khung máy bay sau khi sử dụng
nhiều lần.
Ông Chung trả lời thư mời rằng đến tháng Bảy sắp
tới là thời gian thuận tiện để ôngđi Trung quốc nhân dịp nghỉ hè vài tuần, để
ông có dịp chính mắt mính đi thăm phong cảnh của Quê Mẹ. Ông xin công ty
Rockwell cho ông nghỉ phép bảy tuần lễ để đi chơi.
Ông Chung vẫn còn giữ lá thư mời, cũng như bản
nháp thư trả lời của ông. Đọc cả hai lá thư, không biết là Trung quốc mang ơn
ông, hay là ông mang ơn Trung quốc. Trong một lá thư gửi cho bạn đồng liêu của
Chen Qi Nan, ông Chung viết: “Thật là một vinh hạnh lớn cho tôi, và tôi lấy làm
phấn khởi khi có dịp đóng góp vào kế hoạch canh tân Quê Mẹ.”. Động lực đầu tiên
xúi ông tiếp tay cho Trung quốc là “nghĩa vụ của một con dân”. Bà Ling phải thú
nhận: “Nhà tôi rất trung thành với tổ quốc. Ông ấy có một tấm lòng yêu nước rất
lớn.”
Chen và Chung tiếp tục trao đổi thư từ với nhau nhiều
lần. Chen hỏi ông Chung về các loại máy bay, và cách thiết kế trực thăng, và có
lẽ ông Chung muốn khoe khoang kiến thức của mình, lại bàn luôn sang chương
trình phi thuyền con thoi. Chen phải nhắc nhở ông Chung: “Tôi vẫn mong được ông
chỉ trình bầy về các loại máy bay qui ước thôi.”. Sau đó để tránh khiến ông
Chung bị giảm bớt lòng hăng say, Chen hứa việc trình bầy về phi thuyền con thoi
cũng sẽ được đưa vào nghị trình.
CUỐI THÁNG SÁU NẮM 1985, ông Chung, bà Ling bay
đi Trung quốc cùng với hai cậu con trai ở tuổi teenager. Trong lúc cậu Shane và
Jeffrey theo học lớp dạy Hoa Văn ở Bắc Kinh, ông Chung và bà Ling đi thăm
khoảng hơn một chục thành phố khác nhau cùng với các đoàn du lịch. Họ ghé thăm
nhiều nơí chế tạo máy bay ở tỉnh Nanchang , Chengdu và Xi’an . Bộ hàng không
sắp xếp, và trả hết phi cho những chuyến đi này.
Ông Chung còn là diễn giả
trình bầy những vấn đề kỹ thuật cho mọi người nghe. Chương trình diễn thuyết
của ông được các đại học lớn, và cơ xưởng kỹ nghệ đài thọ. Ông Chung dùng phim
ảnh, tài liệu mang từ Mỹ sang để trình bầy về cách thiết kế phi thuyền của Cơ
Quan Không Gian Hoa Kỳ (NASA), làm cách nào để đưa phi thuyền con thoi trở về
trái đất an toàn. Ông Chung nhận thấy những kỷ thuật ở Bắc Kinh quá lỗi thời,
có từ thập niên 1950’s và chưa được canh tân, cập nhật.
Chuyến đi thăm Trung quốc lần này là chuyến đi
đầu tiên trong đời ông Chung ở tuổi chững chạc. Nó để lại trong tâm khảm ông
rất nhiều dư âm quan trọng cả về mặt chuyên môn, cũng như tình cảm cá nhân. Xen
vào giữa những buổi diễn thuyết ở các xí nghiệp, ông Chung còn được Bộ Hàng
Không sắp xếp cho đi thăm nhiều thắng cảnh đẹp của đất nước Trung Hoa. Đó là
những nơi khi còn nhỏ, cậu bé Chung hằng ước mơ đượcđi thăm. Ví dụ như Tượng
Phật vĩ đại xây trên núi Leshan, và Chuà Dyan ở thành phố Xi’an . Trong lúc lái
xe đi qua nhiều làng mạc, ông Chung trông thấy dân quê Trung quốc hái sen từ
vũng sình lầy. Bà Ling kể lại cho tôi rằng khi ông Chung ngồi toạ thiền, ông đã
hồi tưởng và thấy được cuộc đời của ông ở kiếp trước, đó là cuộc đời của một
nhà sư trong ngôi chùa Trung Hoa.
Vào cuối mùa hè, ông Chung đem về Mỹ những món
quà lưu niệm nhỏ: chiếc kim cài lên cà vạt do hãng chế tạo máy bay tặng, một
vật trang sức cho cà vạt khác do Trung quốc Học Viện Công Nghệ làm riêng cho
ông, kèm theo một bảng vấn lục dài tám trang. Đó là danh sách những điểm kỹ
thuật mà các kỹ sư hàng không ở Nanchang muốn tìm hiểu. Ông Chung để ra vài
tháng nghiên cứu sách vở để trả lời những câu hỏi mà các kỹ sư yêu cầu.
Đến
tháng 12, đích thân ông Chung lái xe lên Lãnh sự quán Trung quốc ở San
Francisco để gửi tài liệu đi Nanchang qua thể thức gửi hàng của giới ngoại
giao. Những thứ ông Chung gửi đi, nếu giới chức Hoa Kỳ biết được chắc hẳn họ
phải kinh hoàng. Toàn là những tài liệu mật có giá trị dầy khoảng bảy cuốn sách
cẩm nang về kỹ thuật từ tài liệu công nghệ của công ty Rockwell cho đến cách
thiết kế oanh tạc cơ B-1.
Ông Moberly nói với tôi: “Tài liệu ông Chung gửi
đi chính là Toa Thuốc Thánh giúp cho công ty sản xuất máy bay Trung quốc có thể
làm được những gì Hoa Kỳ đang làm.”. Ông Chung đã đem cho đi những kiến thức kỹ
thuật mà công ty Rockwell phải mất hàng chục triệu đô la, và nhiều năm mới sáng
chế ra được kỹ thuật đó. Bà Ling thì cho rằng chẳng có gì đáng kể, bạn bè giúp
nhau là chuyện thường. Bà nói với tôi: “Toàn bộ quan hệ này chỉ mang tính chất hữu
nghị. Ở Trung quốc, mọi người đều sẵn lòng giúp đỡ nhau. Nếu bạn là kỹ sư, thì
bạn nên làm những gì bạn có thể làm được để giúp cho tổ quốc của bạn.”
Trong khoảng thời gian một năm rưỡi sau, gia
đình họ Chung mua thêm nhiều tài sản điạ ốc. Tháng 10 năm 1986, họ mua một căn
nhà ở vùng Cypress , California. Năm tháng sau, họ trả bằng tiền mặt khoảng
600,000 để mua một căn nhà rộng một mẫu đất ở Orange, và còn có dư tiền để xây
lại căn nhà từ đầu. Đặc biệt là gia đình này không thích xe xua, đi xe đắt tiền
hay áo quần sang trọng. Vì thế hàng xóm không ai để ý đến sự giầu có của họ.
Gu Wei Hao thỉnh thoảng ghé thăm gia đình, và
hai vợ chồng ông Chung đưa quan chức này đi chơi nhiều nơi, như Disneyland ,
hay ra biển hóng mát. Phụ cấp công tác ngoại giao của Gu bèo lắm, chỉ được có
$4 đô la một ngày. Vì thế phần lớn vợ chồng ông Chung trả hết chi phí đi chơi
cho Gu. Nếu không hẳn là Gu phải có một qũi đen nào đó để cho y tiêu dùng.
Gia đình ông Chung dọn về căn nhà mới vào năm
1989. Chiều tối, ông Chung có cái thú tiêu khiển lấy ống viễn vọng kính nghiên
cứu vì sao trên trời. Ông thích nghiên cứu bản đồ thiên văn học của Trung Hoa
ngày xưa, xác định các chùm sao tinh tú. Bà Ling là người ưa thích mỹ thuật,
hội hoạ. Bà lấy thêm văn bằng cao học mỹ thuật của trường California State
University, Long Beach.
Bà biến cái garage nhà bà thành một studio cho bà vẽ
tranh. Bà cũng nhận dạy hội hoạ cho trường đại học cộng đồng ở điạ phương. Bà
thích dạy về trường phái tân ấn tượng, trừu tượng, và tĩnh vật thịnh hành ở Hoa
Kỳ và Âu châu vào cuối thập niên1970’s. Một đồng nghiệp trong trường nói với
chúng tôi: “Bà có một số môn đệ rất thích theo học với bà, họ mê say lối dạy
của bà.”.
Vào năm 1998, tức là hai năm sau khi hãng Boeing
mua lại hãng Rockwell, ban quản trị mới quyết định rời văn phòng đi nơi khác.
Nhân viên được chỉ thị phải chuẩn bị thu dọn đồ đạc.
Những tài liệu tham khảo cần giữ được tập trung
vào các thùng để sẵn, và công ty vận chuyển sẽ đem đi. Những thứ nào cần vứt
đi, cứ bỏ vào bao rác, sẽ có người đến đem đi đốt bỏ.
Trong vòng vài tuần lễ sau đó, ông Chung đem về
nhà hàng chục thùng tài liệu. Ông dấu những thùng tài liệu này trên những kệ
sách trong căn hầm sau nhà. Những người quen ông ở Trung quốc nhờ ông thu thập
bất cứ tài liệu kỹ thuật nào hữu ích. Bây giờ thì ông có thể có đủ tài liệu để
cung cấp cho họ trong nhiều năm chưa hết.
Năm 2002, khi ông Chung sắp đến tuổi về hưu. Ông
vào sở liên tục in rất nhiều tài liệu gốc của công ty Boeing ra. Trên mỗi bản
in ra, ông ta phải mừng chất keo mầu trắng để xoá lời cảnh cáo, cấm không được
chia sẻ tin tức trong tài liệu với người ngoài công ty. Ông cũng cẩn thận ghi
lại ngày tháng sao chụp, và xoá bỏ tên nhân viên chụp bản sao. Ông làm
photocopy những tài liệu này, bản chính do ông giữ, bản chụp hình ông gửi sang
Trung quốc.
Khối lượng tài liệu in và sao chụp rất lớn, ông Moberly nói với
tôi: “Ông Chung chắc phải dùng hàng trăm bình nước tẩy xoá máu trắng.”
NĂM 2007, TRONG PHIÊN TOÀ LIÊN BANG KÉO DÀI 6
TUẦN LỄ, tại Santa Ana, California, công tố viên trình bầy lý luận truy tố Chi
Mak là một tên gián điệp làm việc cho chính quyền Trung quốc. Họ tố cáo những
tài liệu do Chi Mak thu thập đã giúp Trung quốc làm được hệ thống radar Aegis.
Hệ thống đó giúp bảo vệ các tầu chiến Trung quốc. Bồi thẩm đoàn quyết định kết
án Mak về tội làm gián điệp cho chính phủ nước ngoài, và hắn bị tuyên án 24 năm
tù, trong nhà tù liên bang. Đây là một bản án nặng nhất dành cho một tên gián
điệp cho Trung cộng làm việc tại Hoa Kỳ.
Một người em trai của Mak, cùng bà vợ của y, bị
cảnh sát phi trường quốc tế Los Angeles bắt giữ cùng với một cuốn CD chứa đựng
số tài liệu mật. Tuy nhiên, trong trường hợp của ông Chung, các điều tra viên
gặp phải điểm khó khăn khi truy tố. Trong nhiều tháng, thám tử của FBI nghiên
cứu hơn ba trăm ngàn trang giấy tịch thu ở nhà ông Chung, nhưng không có một
tài liệu nào được gọi là tài liệu mật.
Ông Chung không thể bị kết án là đã tiết
lộ bí mật quốc gia cho nước ngoài. Khi biện lý cuộc chứng minh ông Chung đã
chia sẻ tài liệu mật với viên chức cao cấp Trung quốc vào thập niên 1980, đến
nay đã quá hạn kỳ truy tố 5 năm, nên những vi nếu có xảy ra cũng không còn đầy
đủ hiệu lực dùng để kết án. Ông Moberly nói: “Rõ rệt là ông Chung đã làm điều
sai quấy. Nhưng chúng tôi phải tìm ra luật lệ nào mà ông Chung đã vi phạm, để
truy tố ông ta.”
Trong lúc xem xét qua những luật lệ liên bang,
ông Moberly bắt gặp một đoạn văn mang tựa đề: “Economic Espionage” (Làm Gián
Điệp Kinh Tế) đã được Quốc Hội thông qua và làm thành luật Economic Espionage
Act năm 1996. Ông Moberly nhớ là mình đã học qua lớp học dài khoảng 30 phút
trong chương trình huấn luyện phản gián. Lớp học ngắn quá, và ít có ai bị truy
tố về tội làm gián điệp kinh tế, nên không ai để ý đến đạo luật này.
Nội dung của đạo luật nói rằng kẻ làm gián điệp
kinh tế là người đã “lấy đi, mang theo, cất dấu” hay “sử dụng không đúng cách”
những bí mật mậu dịch với chủ đích trợ giúp chính quyền nước ngoài. Đối với
trường hợp của ông Chung, công tốviên không cần phải chứng minh ông Chung
chuyển giao tài liệu sang Trung Hoa trong năm năm qua. Chỉ riêng việc ông cất
dấu bí mật mậu dịch trong căn hầm đủ để kết tội ông.
Năm 2009, vụ án liên quan đến ông Chung được đem
ra xét xử. Chánh án kỳ này cũng chính là thẩm phán Cormac J. Carney, người từng
xử Chi Mak trước đây. Trong phần lấy lời khai, chuyên viên tình báo FBI, Ronald
Guerin, trình bầy kỹ thuật ngành tình báo Trung quốc tuyển người làm gián điệp
cho họ. Ông Guerin phân tích:“Tình báo Trung quốc cố tình khai thác khía cạnh
Trung Hoa nơi người làm mật báo viên. Họ dụ dỗ những người này bảo rằng họ cứ
chịu khó làm gián điệp cho Trung quốc đi, nó chẳng hại gì Hoa Kỳ cả, chỉ giúp
cho Trung quốc thôi.”. “Bạn chỉ cần vỗ vai người Hoa, và bảo anh ta rằng anh
cần giúp đỡ cho Quê Mẹ, cho đất nước của anh.. Và sau đó, anh cho người mật báo
bằng khen, bằng tưởng lục…, hay cho người ấy một số tiền.”. Trong trường hợp
của ông Chung, rõ rệt là ngành tình báo Trung quốc đã dùng nghệ thuật ngon ngọt
nói nịnh ông Chung, và đem lại hiệu quả tốt. Việc truy tố ông Chung không hề có
bằng cớ về số tiền trao đổi để lấy tin tức.
Phe bào chữa cho ông Chung lý luận rằng quả thực
ông Chung đã làm một số việc “ngu dại trong quá khứ”, nhưng từ chối không nhận
tội chia sẻ tin tức mật. Ông ta chỉ là một kẻ tàng trữ tin tức vào hàng tép
riu. Ngay lập tức, ông Greg Staples, công tố viên trưởng, phản bác liền: “Hắn
không phải là loại tép riu. Hắn là tên tàng trữ tin tức khổng lồ, ghê gớm, và
đáng sợ.”
Ông Chung trở thành người Mỹ đầu tiên bị kết tội
làm gián điệp kinh tế. Ông bị kết án 15 năm 9 tháng tù. Từ sau vụ này, còn có
bốn người khác bị công tố viên liên bang truy tố về tội làm gián điệp kinh tế.
Tổng cộng có năm người bị kết án với tội danh này.
Sau này, ông Moberley kể cho biết trong thời
gian vụ xử tiếp diễn, có lần ông Chung xác nhận ông trao tài liệu mật, và được
nhận tiền thưởng. Để bảo vệ bí mật cho cơ quan FBI, ông Chung không dám công
khai nói trước toà về trường hợp ông được trả tiền. Những lời cáo buộc trùng
hợp với nội dung lá thư mà Gu Wei Hao viết cho ông Chung, hứa sẽ trả bằng tiền
mặt cho ông Chung. Ngoài ra, trương mục ngân hàng của ông Chung tương đối không
có nhiều tiền, và đồng lương của ông ở Rockwell không quá lớn, khoảng $60,000
một năm. Vậy mà không hiểu nhờ đâu mà ông Chung có thể làm chủ một garage sửa
xe, một chung cư ba căn apartment cho thuê, và làm chủ hai căn nhà cùng một
lúc. Ông Moberly vẫn nói với tôi rằng:“Tôi không bao giờ tin ông Chung làm
chuyện này để lấy tiền.”. Rất có thể chính quyền Trung quốc cho ông Chung vài
chục ngàn như là một số tiền tưởng thưởng, khích lệ mà thôi.
ÔNG CHUNG KHÔNG BAO GIỜ CHO PHÉP TÔI VÀO THĂM
ÔNG TRONG NHÀ TÙ, nhưng bà Ling thì miễn cưỡng trả lời điện thoại của tôi. Bà
không bị truy tố về tội hình. Một buổi chiều, tôi đậu xe ở cuối đường Grovewood
Lane, đi bộ lại căn nhà ông bà Chung có cổng sắt.
Chuông bấm ở cổng đầy máng nhện bám, ám chỉ rất
hiếm khi họ có khách đến nhà. Sân cỏ trước nhà mọc đầy cỏ dại, cái xe cút kít
để hốt lá cây khô, nằm chỏng gọngở một góc, không có ai dùng đến nó từ nhiều
năm nay.
Khi tôi bấm chuông cửa, bà Ling Chung bước ra,
dơ tay vẫy từ bực thềm trước nhà. Bà mặc bộ quần áo ở nhà mầu xanh lá cây, tóc
bà bơ phờ, không trang điểm. Bà mời tôi ngồi ở ghế sa lông mầu trắng trong
phòng khách. Nắng chiều lọt vào khe cửa làm loé lên vài đường nắng sáng trên
nền thảm.
Bà Ling rót ra một ly nước, mời tôi, và ngồi đối
diện với tôi. Với nụ cười chán nản trên môi, bà kể cho tôi kỷ niệm hồi hai vợ
chồng bà xin vào quốc tịch Mỹ. Trong mục câu hỏi “Liệu ông có sẵn sàng cầm súng
bảo vệ Hoa Kỳ hay không?”. Ông Chung bỏ trống, không trả lời. Người phỏng vấn
hỏi ông Chung: “Ông có sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung quốc trong trường hợp
xảy ra chiến tranh hay không?”. Bà Ling nhớ rõ câu trả lời của ông Chung là:
“Nếu việc này xảy ra, tôi sẽ lấy khẩu súng tự bắn vào mình trước.”.
Chúng tôi bước bên nhau, đi từ phòng khách sang
xưởng vẽ của bà. Phòng vẽ tranh trông ra sân trước. Một bức tranh trừu tượng
khổ lớn đang để trên nền nhà, tưạ vào tường. Bà Ling nói với tôi rằng từ nhiều
năm nay, bà tiếp tục vẽ tranh. Bà chỉ tay vềphía một bức tranh trông như thập
tự giá mầu violet, trên một chân trời tím. Bà nói tựa đề bức tranh này là
“45436-112”. Đó là con số tù của chồng bà đang đeo khi thụ án tại một nhà tù
liên bang, không bị kiểm soát chặt chẽ. Nhà tù này ởthành phố Butner, tiểu bang
North Carolina . Vài tháng bà đi thăm ông một lần.
Nước mắt ứa trên khoé mắt của bà. Bà tâm sự với
tôi: “Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, là chúng tôi quyết định sẽ lấy nhau. Vợ
chồng chúng tôi sống rất hoà thuận, hạnh phúc. Ngay cả khi chúng tôi trên 60,
bạn bè thường nói chúng tôi trông như cặp tình nhân ở thuở sinh viên.”.
Khi ông Chung còn làm cho hãng Boeing, thỉnh
thoảng ông ngủ trưa trong hãng, ông choàng tỉnh dậy vì nằm mơ thấy bà Ling đứng
cạnh hát cho ông nghe. Ông hay cằn nhằn: “Tôi đã nói với bà nhiều lần, đừng
đứng cạnh tôi mà hát, tôi ngủ không được.”. Trong đầu ông lúc nào cũng nghĩ
rằng tôi đang hát.
Tôi hỏi bà Ling liệu ông Chung có thuỷ chung với
nước Trung Hoa nhiều như ông chung thủy với bà? Phải chăng các quan chức Trung
quốc đã lợi dụng tấm lòng chung thủy của ông Chung? Bà lặng thinh, không trả
lời. Tôi hỏi thêm theo bà nghĩ ông Chung có vô tội không? Bà nói: “Tôi không thể
trả lời câu hỏi này được.”
Bà cho rằng các công tố viên đã suy nghĩ nông
cạn, khi tìm hiểu động lực nào đã khiến ông Chung làm chuyện này. Theo bà:
“Những công tố viên này chỉ nghĩ một cách phiến diện, lướt qua trên bề mặt của
vấn đề.” Sau đó, bà phân tích kỹ hơn cho tôi nghe: Chủ đích của ông Chung là
giúp Trung quốc, và không có ý định làm hại Hoa Kỳ. Bà nói thêm: “Khi ông kết
bạn với một người, người ấy nhờ ông giúp đỡ, nếu ông là kỹ sư, hay hoạ sĩ. Ông
biết gì thì giúp bạn ông trong khả năng của mình. Chỉ có thế thôi.”
Trước khi ra về, bà Ling cho tôi xem một tấm
giấy dài, dán trên tường, ngay cửa bước vào phòng vẽ tranh. Trên tấm giấy viết
những hàng chữa Tầu rất đẹp: Đó là một số điều người Phật Tử nên làm. Chính ông
Chung đã chép tay những điều này cho bà Ling. Tôi thắc mắc không hiểu những
điều Đức Phật dạy có giúp gì cho ông Chung trong việc giải quyết xung đột giữa
hai chọn lựa ông nên trung thành với Hoa Kỳ hay với Trung quốc.
Tôi hỏi bà Ling
xem bà có thể cùng một lúc duy trì thái độ của hai con người, với hai quốc
tịch. Mắt bà sáng hẳn lên, bà nói: “Tôi là một người Hoa, Tôi cũng là một người
Mỹ. Điều này thật là đẹp. Việc gì cứ phải biến nó thành hai thực thể kình chống
nhau?”.
Bài phóng sự điều tra của Yudhijist
Bhattacharjee trên The New Yorker 5/5/14
Nguyễn Minh Tâm dịch
---------- Forwarded message ----------
From: PHAM HoangAn <
Date: 2014-06-17 0:23 GMT+02:00
Subject: Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
To:
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
From: PHAM HoangAn <
Date: 2014-06-17 0:23 GMT+02:00
Subject: Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
To:
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching