Lý Quang Diệu: Hoa Kỳ, Nhiều Trở Ngại Nhưng Vẫn
Giữ Vị Trí Số 1
Lý Quang Diệu
June 3, 20140 Bình Luận
June 3, 20140 Bình Luận
Cân bằng quyền lực
đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời
gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện
sẽ không còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc
có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng
hơn ở châu Á.
Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều
hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể.
Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng
góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ.
Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy
ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung
Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một
cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy
hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần
sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính
sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama
tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình
Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau
chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa
từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ
tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên
toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc
phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các
hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200
lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần
nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu
Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa
Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ
giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối
cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các
quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.
Tuy nhiên, chúng ta
còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được
hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác.
Hiện nay Hoa
Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn
ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về
lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người
Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng
lại được với hải quân Trung Quốc.
Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương
đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể
cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm?
Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm?
Có thể. Rốt cuộc, cân
bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa
Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể
phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ
quân sự.
Khi cuộc chiến
tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn
ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới.
Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải
chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”.
Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể
không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ
nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ
khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình.
Người ta sẽ
phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng
không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không
cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây
Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam,
là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của
Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để
trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia.
Đặng phá hủy một vài làng mạc và
thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt:
“Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà
người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam
bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu
dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy
rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa
Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý
đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm
Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc
hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa
cộng sản.
Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như
người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí
chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã
sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ.
Nixon đã giúp cho miền Nam Việt
Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không
thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành
động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải
mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán
hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực
lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”.
Điều này
làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm
sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm.
Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn
không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang
thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta
lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt
với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với
người Mỹ.
Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần
đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á –
Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung
Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn
hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ.
Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp
lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu
người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có
nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ.
Nhưng chúng ta sẽ
không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây
là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên
kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được
người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người
Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học
tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn
và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong
Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng
Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”
Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh
để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu
chuyện tăng trưởng của Singapore.
Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế.
Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ
tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là
một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người
nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của
Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà
trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc
giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm
chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta
được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào
GDP của chúng ta ít hơn 20%.
Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy
trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người
Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch
kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng
ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào
trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi
mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh
cuối cùng
Hoa Kỳ không phải
đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng
quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng
tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một
Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống
còn tệ hại hơn.
Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời
kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các
cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ
đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp
đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa
Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt
sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo
– tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm
thấy hữu dụng và đáng khát khao.
Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất
cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có
thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh
tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó
cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều
cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những
người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta
phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái.
Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính
sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và
một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn.
Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng
nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy
thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc,
Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn.
Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về
dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ
không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn.
Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ
có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng
họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin
vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?
Đầu tiên, Hoa Kỳ là
một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn
người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và
trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và
thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm
gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong
lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc.
Hoa Kỳ sẽ
không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng
thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài
từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người
Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ
một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng
hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách
làm ăn mới.
Trung Quốc và những
quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của
Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các
doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không
còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại
nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng
là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã
hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất
từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học
của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore
chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh
viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh,
bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không
năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao
Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn
ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không
học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà
bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp.
Đây là một rào cản rất lớn.
Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ
mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi
vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là
tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi
sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học.
Có bao nhiêu người
đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và
người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố
gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện
Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến
Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ.
Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần
phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị
đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền
hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không
thể thắng.
Một nguồn lực
khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh
lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây
có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas.
Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai
nhường ai.
Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu
ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở
Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ
ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác.
Gia đình ông có
tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha,
ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về
quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin
rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể
kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có
tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa
dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý
tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu.
Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp
cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ
giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một
trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả
Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân
tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge
(Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì
vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập
niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về
tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ
điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công
nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động
phổ thông được các công đoàn bảo vệ.
Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống
đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp
có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại
đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần
thiết.
Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng
công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy
trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ
thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian
điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương
tốt hơn.
Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ
hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được
tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng
tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc
chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các
nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp
của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng
kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và
có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được
thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái
giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo.
Ở thời kì
suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết
quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng
đẹp đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ
đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ.
Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng
cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp
nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện
giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv….
Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu
bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc
tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi
việc tạo nên một tầng lớp dưới.
Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như
châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng
động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ
có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công,
họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận
và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là
một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ
có thể đứng lên và bắt đầu lại.
Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh
hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính
châu Âu về điểm này.
Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước,
máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít
khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại
như thế?
Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới
thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới
bị xem thường.
Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí
thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động
cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không
có khoảng cách tầng lớp.
Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở
nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải.
Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp,
và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu (2013)
Biên dịch: Nguyễn
Việt Vân Anh Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching