THỬ GIẢI THÍCH
MỘT BÀI THƠ
ĐÁNG CHÚ Ý
VỀ VẬN MỆNH ĐẤT
NƯỚC
TRẦN TỪ MAI
Nhân một số biến cố đáng lưu tâm xảy ra trên thế
giới trong ít hôm gần đây (lực lượng an ninh tại thủ đô Ukraine quỳ xin lỗi dân
chúng vì đã theo lệnh vị Tổng thống độc tài và tham nhũng bắn vào cuộc biểu
tình của dân Ukraine ít hôm trước đó; Nga viện cớ “bảo vệ kiều dân” để can thiệp
vừa quân sự vừa chính trị vào bán đảo Crimea, tìm cách tách Crimea ra khỏi
Ukraine hầu sáp nhập vào Nga …), một vài thân hữu nhắc người viết những dòng
này nhớ lại một bài thơ có vẻ như báo trước vận nước được xuất hiện từ đầu thế
kỷ trước, với những câu như:
--Thất phu mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh
Thủy Hoàng
(Bao giờ những người thô tục, lỗ mãng lạy những
người học trò
Thì những người muốn đất nước tốt đẹp hơn thắng những
người cầm quyền độc tài)
--Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại toan đường sang
xe.
(Đáng cười cho bọn đứng nhìn từ một bên,
Ván cờ đã tàn [sự thua được đã rõ] còn muốn
đem [quân] xe sang sông),
(cố can thiệp một cách vô ích, không đổi được tình
thế).
Hoành Sơn lấp lối ra vào
Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương
Cung mây đã sẵn trời giương
Non sông sắp đổi một trường
Xuân Thu
Tên trao ba mũi phục thù
Nào hay Khắc Dụng bày trò cho con
Ngọn cờ lấp ló đầu non
Thạch thành mèo nọ bon bon chạy về
Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn
Trời
Nam lại trổi đế vương
Chân nhân đâu phải là phường
thày tăng
Đồng dao ta có câu rằng
Non xanh mà mọc trắng răng mới
kỳ
Bao giờ trổ ngọn thử ly
Ai ơi
nhớ lấy sấm ky kẻo lầm
Đang khi
sấm gió ầm ầm
Ấy là khí vận để găm
trị bình
Thất phu
mà lạy thư sinh
Vân lôi
ta chấp mấy anh Thủy Hoàng
Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại toan đường sang xe
Thôi thôi mặc lũ người hề
Gió mây ta lại đi về gió mây.
Câu 1: rấp
Câu 4 : rắp
Câu 5 : treo
Câu 7 : nhô nhấp
Câu 11: Cõi, dựng
Câu 12: không
Câu 14: cũng
Câu 15: bẻ
Câu 16: Xin ai
Câu 17: Rồi đây
Câu 18: khí số, chăm
Câu 19: Vũ phu, lại
Câu 20: Sông ô
Câu 22: thí, đấm
Bài thơ này thuộc loại “không dễ hiểu” vì:
--Những từ dùng ẩn dụ, ngụ ý: “cáo” gào giả vương,
“mèo” bon bon chạy về …
--Những từ đòi hỏi chút kiến thức về lịch sử, văn
hóa Trung Hoa: “Khắc Dụng bày trò,” “ngọn thử ly,” “vân lôi” …
Trên cương vị một người muốn được góp phần vào việc
làm rõ ý nghĩa một bài thơ diễn đạt một cách quá kín đáo, chúng tôi xin trình
bày cách hiểu của mình tới các bậc thức giả cùng những vị quan tâm đến vận mệnh
đất nước. Việc định giá trị cho bài thơ (có thực bài này mang ý nghĩa tiên đoán
hay không, và nếu có thì giá trị của sự tiên đoán ấy đạt tới mức nào), xin được
nhường lại những bậc có kiến thức cao hơn.
Lai lịch bài thơ:
Hoành Sơn là rặng núi từ Trường Sơn chạy ra biển,
giữa ranh giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, chắn ngang đường giao thông từ Bắc
vào Nam. Theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúa Nguyễn Hoàng từng
vượt qua núi này trên đường vào Nam dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Nay “Hoành
Sơn bị ngăn lấp, không đi được nữa.” Với một vị vua nhà Nguyễn, câu thơ mở đầu
đã gây một chấn động mạnh (điều xấu sắp xảy tới cho một địa điểm liên quan tới
việc dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn). Câu này như cũng báo trước chuyện đất nước
chia đôi, vì khi Việt Nam bị tách làm hai sau hiệp định Genève 1954, ranh giới
Bến Hải không quá xa Hoành Sơn.
Điều xấu được nhắc đến trong câu thơ trên là “nhà
Nguyễn chấm dứt.” “Vọng đế” là một biệt hiệu của vua nước Thục, tên thật là Đỗ
Vũ. Theo sách Hoàn Vũ Ký của Trung Hoa, sau khi mất nước, hồn vị vua ấy
không tiêu tan, hóa thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc). “Tiếng quốc kêu, đó
là vị vua mất nước. Cáo gào thét, đó là một vua giả” (không phải vua nhưng quyền
hành như vua). Câu này cũng cho biết khi nhà Nguyễn mất ngôi, sẽ có “một con
cáo” (hay một người khôn ngoan, quỷ quyệt như cáo) gào lên đòi có quyền giống
như vua. Đầu năm 1945, các bậc trưởng thượng của người viết những dòng này
không biết tiếng “cáo” ấy để chỉ ai. Cho tới nay, thiết nghĩ tất cả người Việt
chúng ta đều đã biết.
Khi những chuyện
ấy xảy ra (nhà Nguyễn mất ngôi, cáo làm vua giả), thì hay hay dở cho đất nước?
Câu này mách cho ta biết: “Cung đã được giương ra trên trời” (mây trên trời có
hình cung tên), dấu hiệu của một thời ly loạn.
“Xuân Thu” là một thời đại trong lịch sử Trung
Hoa, từ năm 722 đến năm 481 trước công nguyên. Ở giai đoạn này, thiên tử nhà
Chu suy yếu, không còn khả năng lãnh đạo nên các chư hầu tranh giành, thôn tính
lẫn nhau. Nói chung, “thời Xuân Thu” có nghĩa như một thời đại loạn.
Nào hay Khắc Dụng bày
trò cho con:
Lý Khắc Dụng (李克用--Li Keyong) nguyên thuộc họ Chu Tà (朱邪—Zhuye), sinh
năm 856, mất năm 908, là thủ lãnh của bộ tộc Sa Đà (Shatuo), một sắc tộc thiểu
số ở phía Bắc Trung Hoa, thuộc giống Tây Đột Quyết (Western Turkic), xuất xứ từ
miền Trung Á. Khi nhà Đường gần sụp đổ vì loạn Hoàng Sào (vua Đường phải bỏ
kinh đô chạy vào đất Thục), ông đem quân khôi phục kinh đô Tràng An, phá tan
quân giặc khiến Hoàng Sào phải tự tử. Với công lớn, ông được phong tước vương,
ban “quốc tính” (dùng họ Lý của vua Đường). Ít lâu sau Chu Ôn, một tướng
cũ của Hoàng Sào nhưng đã hàng nhà Đường, được vua Đường quá tin cậy (đổi tên
thành Chu Toàn Trung và cho thêm quyền hành) giết vua Đường để cướp ngôi. Nhiều
người khuyên Lý Khắc Dụng tự lập làm vua nhưng ông từ chối. Không công nhận
ngôi vua của Chu Ôn, ông tiếp tục giữ niên hiệu vua Đường trong phần đất ông trực
tiếp cai trị để tỏ lòng trung với nhà Đường. Theo truyền thuyết, trước khi mất,
ông giao cho con là Lý Tồn Úc (李存勖—Li
Cunxu) ba mũi tên để “giết ba kẻ đại thù,” một trong ba kẻ ấy là Chu Ôn, người
đã giết vua để tiếm ngôi. Sau Lý Tồn Úc thành công, lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu
Đường, tuyên bố “phục hưng lại nhà Đường” tuy không hề có liên hệ huyết thống.
Thạch thành mèo nọ bon
bon chạy về:
“Ngọn cờ khi ẩn khi hiện trên núi” có vẻ như “chiến
khu lập trên núi.” “Thạch Thành” theo nghĩa đen là một địa danh, tên một huyện ở
Tây bắc tỉnh Thanh Hóa, theo nghĩa bóng (bức thành bằng đá) có thể chỉ hang
núi. Cắm cờ, lập chiến khu trên núi, khi vận nhà Nguyễn hết, “một con mèo” từ bức
thành bằng đá (hay từ huyện Thạch Thành, Thanh Hóa?) bon bon chạy về nắm quyền
(ngụ ý nắm được quyền một cách dễ dàng). Lãnh tụ CS Hồ Chí Minh có rất nhiều lý
lịch với nhiều năm sinh khác nhau (1888, 1889, 1890, 1892, 1894) nhưng hầu như
ai cũng biết rằng ngày sinh được tuyên bố “chính thức” (19 tháng 5 năm 1890) không
phải ngày sinh thật. Theo nhiều vị bô lão ở Nam Đàn, Nghệ An, “người con trai
thứ hai của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (tức ông Nguyễn Sinh Côn, hay Cung, sau
đổi tên ra Nguyễn Tất Thành), sinh năm Tân Mão.” Trong cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân
Biên (trang 316), nhà biên khảo Vân Đằng Thái Thứ Lang cung cấp lá số của một
người sinh năm Tân Mão 1889, và cho biết đó là “một lá số gian hùng,” cùng đến
năm Bính Thân 1956 người ấy “đã có sự nghiệp lớn” nhưng “hại dân hại nước.”
Vân Đằng Thái Thứ Lang có một ông bác ruột, một vị Phó Bảng danh tiếng, một học
giả uyên bác, kẹt trong vùng kháng chiến từ 1946 và được HCM nể trọng.
Sự kiện ông biết tuổi thật của ông HCM không phải là điều đáng ngạc
nhiên.
Con quay ngã trắng, ba
que cuộc tàn:
Câu thơ trên cho biết sau khi ông HCM nắm
được quyền, chiến tranh xảy ra và người Pháp chết rất nhiều. Nghĩa chữ Hán của
con dê là “dương,”đồng âm với chữ “dương” là biển, đưa tới từ “dương nhân” để
chỉ người ngoại quốc. Câu thơ sau muốn nói: Khi cuộc chiến kết thúc, người Pháp
sẽ thua (con quay bị ngã có màu trắng), sau đó, cờ ba gạch của phe Quốc gia
không xuất hiện ở miền Bắc nữa.
Chân nhân đâu/không phải
là phường thày tăng
Đồng dao ta có câu rằng
Non xanh mà mọc trắng
răng mới/cũng kỳ:
Tuy cờ của phe Quốc gia không còn ở miền Bắc nhưng
một quốc gia được lập nên ở miền Nam. Quốc gia này có nhiều nhược điểm. Một số
tăng sĩ Phật giáo tưởng mình là “chân nhân,” có khả năng cứu đời (trong khi thực
ra mình không có). Nhiều người “trắng răng” dắt nhau lên “non xanh.” Khi bài
thơ này được đưa ra ở đầu thể kỷ trước (1902) đa số dân Việt, nhất là ở nông
thôn, còn để răng đen. Mấy tiếng “bọn trắng răng” đồng nghĩa với “người thành
thị.” Trong quốc gia mới thành lập ở miền Nam ấy, lạ thay, một số người thành
thị lại dắt nhau vào non xanh! Không rõ câu này có dùng để ám chỉ một số khá
đông thanh niên trí thức nhiều đô thị miền Nam đã – vì nhiều lý do khác nhau --
“ra bưng” hay “nhảy núi,” giúp CS chống phá chính thể miền Nam? “Đồng dao” là lời
hát của trẻ con. Với hai câu 13-14, “trẻ con cũng biết như thế là kỳ lạ,”
tác giả tỏ ý chê bai và khiển trách.
Ai ơi/Xin ai nhớ lấy sấm
ky kẻo lầm:
Vì có nhiều mâu thuẫn nội bộ trong lúc phải đối
phó với một lực lượng mạnh hơn đang nhất quyết tìm cách tiêu diệt mình, quốc
gia mới thành lập ở miền Nam ấy không tồn tại được lâu. Hai câu 15-16
khuyên: bao giờ thấy “ngọn thử ly” mọc lên (hay khi bẻ ngọn ấy), hãy nhớ lấy lời
sấm. Lời sấm ra sao, tác giả không nói rõ. Then chốt của hai câu này nằm trong
ba tiếng “ngọn thử ly.”
Ấy là khí vận/số
để găm/chăm trị bình:
“Xuân Thu” sẽ chấm dứt sau một cơn “sấm gió ầm ầm.”
Nói cách khác, lúc “sấm gió ầm ầm”chính là lúc khí vận/khí số của đất nước chuyển
từ “Xuân Thu” sang thái bình, thịnh trị. Người viết những dòng này tự thấy chưa
đủ khả năng giải thích mấy từ này, chỉ xin tạm đưa ra giả thuyết:
“Sấm gió ầm ầm” có thể được hiểu theo nghĩa đen:
thiên tai, động đất, giông bão lớn, đưa tới nạn lụt, sóng thần…, gây hại tới
hoa lợi, mùa màng. Có thể được hiểu theo nghĩa bóng: lòng dân sôi sục, phẫn uất
tới cao độ. Có thể được hiểu theo nghĩa rộng: biến cố chính trị, xáo trộn lớn ở
một quốc gia gần và có ảnh hưởng đáng kể tới Việt Nam. Có khi ba yếu tố trên
cùng xảy tới một lúc, hỗ trợ lẫn cho nhau. Hai câu trên có thể cũng ngụ ý: Với
những người có lòng với đất nước, khi thấy “sấm gió ầm ầm” chớ nên sợ hãi. Đó
là lúc vận khí của sông núi chuyển từ “Xuân Thu” sang bình trị. Xin được thỉnh
giáo các bậc cao kiến.
Vân lôi ta chấp mấy anh
Thủy Hoàng:
“Thất phu” nguyên nghĩa là một người tầm thường,
không có địa vị, chức vụ gì, nhưng đôi khi được hiểu như một người thô tục, lỗ
mãng. Vũ phu là loại người thô bạo, dùng sức mạnh để lấn hiếp người khác. Thư
sinh là người đọc sách, thường được gán cho đặc tính “trói gà không chặt.” Thất
phu, nhất là vũ phu, thường chỉ hiếp đáp thư sinh. Họ chịu “lạy” thư sinh là
chuyện bất bình thường. Nhưng khi chuyện ấy xảy ra thì những người “vân lôi” sẽ
thắng “mấy anh Thủy Hoàng” (phe nhóm cai trị một cách độc đoán, tàn bạo như Tần
Thủy Hoàng). Then chốt của hai câu này (cũng như của toàn thể bài thơ) nằm
trong hai chữ “vân lôi.”
“Một người có tài đức mà gặp buổi thiên hạ đương
truân, không lẽ chẳng ra cứu đời. Nhưng muốn cứu đời không lẽ một sức mình mà
làm xong, tất phải tìm nhiều bạn hiền giúp đỡ” (Phan Bội Châu. Chu Dịch.
Sàigòn : Khai Trí, 1969. Cuốn I, trang 134).
Quẻ Truân được viết với quẻ Khảm ☵ (là nước) ở
trên, quẻ Chấn ☳ (là sấm) ở dưới, nên có danh hiệu đầy
đủ là “Thủy Lôi Truân.” Sấm động mạnh, nước sẽ hóa ra mây. Cụ Phan Bội
Châu dịch đoạn này như sau: “Mây có rồi, sấm có rồi, thế nào cũng đến ngày mưa
tới” (sách đã dẫn, trang 137). Nhưng quẻ Truân khuyên không nên vội (chưa biết
mưa tới lúc nào) mà phải chuẩn bị cho thật chu đáo, “đúng thời” hãy hành động.
Lời “Đại tượng” (biểu tượng tổng quát) của quẻ này nói: “Vân lôi truân, quân
tử dĩ kinh luân 雲雷屯君子以經綸” (Gặp quẻ
Truân, người quân tử đem tài sức ra giúp đời, đưa mọi vật từ hỗn loạn trở về trật
tự). Trong một bản chuyển Kinh Dịch sang Anh ngữ rất được phổ biến ở Tây
phương, hai dịch giả Chin Lee và Kay Wong tóm tắt ý chính của quẻ Truân như
sau, ”Though in the beginning difficulties prevail, the superior man will bring
order out of chaos” (I Ching : Book of Change. Translated by Chin Lee and
Kay Wong. San Clemente, CA : K. King Co., 1977. Page 23).
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử
Buổi vân lôi hai chữ kinh luân.
Nho sĩ, trí thức thời xưa rất thông thạo Kinh Dịch.
Chỉ cần nghe hai tiếng “vân lôi,” người ta lập tức nghĩ đến ngay cả câu: “Vân
lôi truân, quân tử dĩ kinh luân.”
Cho nên hai câu thơ:
Thất phu (hay Vũ phu)
mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng
chỉ có thể có nghĩa: “khi nào mấy anh thất phu
(hay vũ phu) … phải quỳ lạy những học sinh, sinh viên (vì họ quá đông, vì khí
thế của họ mạnh mẽ, chẳng hạn như ở thủ đô Kiev của Ukraine cuối tháng 2-2014 vừa
qua), thì những người có hoài bão làm cho đất nước tốt đẹp hơn sẽ thắng những kẻ
cầm quyền độc tài.”
Cờ tàn mà lại toan đường
sang (đấm/thí) xe:
“Lũ bàng quan” là những người đứng nhìn từ bên cạnh
(người ngoài). Tuy ván cờ đã tàn, sự được thua đã rõ, họ còn cố can thiệp để
mong đem lại kết quả theo ý họ, hoặc bằng áp lực quân sự trực tiếp (sang xe, đấm
xe), hoặc bằng cách mua chuộc, đưa quyền lợi ra nhử những người ham lợi nhỏ để
tránh cho khỏi bị thua (thí xe). Theo bài thơ, họ sẽ chỉ làm trò nực cười, vì
khi cờ đã tàn, không cách gì có thể cứu vãn được nữa.
Gió mây ta lại đi về gió
mây:
Tác giả bài thơ (Liễu Hạnh công chúa?) không bận
tâm với “lũ người hề” ấy, lại thảnh thơi vui với gió mây.
Sau khi giải xong những điển cố và từ ngữ khúc mắc,
ta thấy nghĩa bài thơ hiện ra rất rõ:
“Hoành Sơn bị ngăn lấp. Nhà Nguyễn sắp mất. Một
con cáo gào lên để có quyền như vua mà không phải là vua. Mây trên trời thành
hình cung tên. Đất nước sắp chịu cảnh hỗn loạn, chiến tranh. Có những kẻ giảo
quyệt, giả bộ nhân nghĩa chứ thực ra không phải như thế (Lý Khắc Dụng bày trò).
Sau khi cắm cờ, lập chiến khu trên núi, một con
mèo từ hang đá chạy về nắm quyền một cách dễ dàng. Chiến tranh xảy ra, người
ngoại quốc chết nhiều. Người Pháp sẽ thua (con quay ngã trắng), cờ ba gạch thất
thế.
Một quốc gia lập nên ở miền Nam. Có những tu sĩ tưởng
lầm mình là chân nhân. Nhiều trí thức thành thị làm một chuyện kỳ lạ là dắt
nhau vào núi.
Bao giờ một chế độ phải đợi sau khi mất mới được
nhớ tiếc không còn hiện hữu nữa (“ngọn thử ly”), hãy nhớ lấy lời sấm. (Đất nước
rơi vào tình trạng “Xuân Thu” khi “cáo” lên ngôi. Với biến cố 1975, đất nước
chưa thoát khỏi “Xuân Thu” vì chế độ của “cáo” vẫn còn đó). Xuân Thu sẽ chuyển
sang bình trị khi “sấm gió ầm ầm” nổi lên. Khi những anh thất phu (hay vũ phu)
lạy những người học trò, những người muốn đất nước tốt đẹp hơn (vân lôi) sẽ thắng
kẻ cầm quyền độc tài. Ván cờ đã tàn, đáng cười cho những kẻ còn muốn can thiệp
một cách vô ích. Không bận tâm đến “lũ người hề,” ta lại vui với gió mây.
Nên có thái độ dè dặt:
Tuy có để tâm đến sấm ký như một phần của văn học
dân gian, và cho rằng chúng ta nên đọc, nên biết qua những câu sấm liên quan đến
lịch sử, người viết những dòng này vẫn nghĩ nên có thái độ dè dặt khi bàn tới ý
nghĩa những tác phẩm thuộc loại này. Việc thảo luận chỉ nên ở phạm vi “trà dư tửu
hậu.” Ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa trước kia, sấm ký thường được sáng tác với
mục đích chính trị, nhất là khi người đặt ra có ý muốn thay đổi triều đại. Câu
thơ chiết tự “Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành” 禾刀木落, 十八子成 (ghép lại
thành “lê”梨 rụng, “lý” 李 thành) đã do
những người ủng hộ Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn đặt ra để vận động cho việc
đưa ông lên làm vua thay nhà Tiền Lê. Những chữ “Lê Lợi vi quân …” trên lá cây
đã do chính Nguyễn Trãi dùng bút viết bằng mỡ cho kiến đục. Khi khởi nghĩa,
Nguyễn Nhạc đưa ra câu sấm “Tây sơn Biện Nhạc vi vương.” Khi nổi lên chống lại
nhà Nguyễn, tuy Phan Bá Vành cho loan truyền câu ca dao “Trên trời có sao
tua rua, Ở dưới hạ giới có vua Ba Vành,” “vua” vẫn bị bắt và bị chém.
Nhiều đoạn thơ gọi là “sấm Trạng Trình” không đáng được tin vì ở thể song thất
lục bát, một thể thơ đến thế kỷ 17-18 mới thông dụng ở Việt Nam, trong khi Trạng
nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mất từ thế kỷ thứ 16. Nhiều phe nhóm, đoàn
thể chính trị đã “chế tác” ra sấm để vận động, lôi kéo quần chúng. Bài viết này
chủ yếu là một cố gắng trong phạm vi văn học, cốt để làm rõ nghĩa một số từ
khúc mắc trong một bài thơ hay và đáng được chú ý, đang phổ biến rộng rãi trên
Net.
Những người bị nghi đầu tiên là những người Cộng sản.
Trong bài có nhiều câu hữu ích cho họ: nhà Nguyễn sẽ mất ngôi, người Pháp sẽ
thua (con quay bị ngã có màu trắng), phe Quốc gia thất bại (“ba que cuộc tàn”),
khiến ta có cảm tưởng rất có thể họ đứng sau bài thơ này. Nhưng nếu quả
thực bài thơ này do họ đặt ra, sẽ không có chuyện gọi người cầm đầu của họ là
“cáo” (vốn mang nghĩa xấu), sẽ không có câu: khi cáo làm vua giả, non sông hóa
“một trường Xuân Thu” (không tốt đẹp gì). Và trong bài thơ này, phổ biến trễ nhất
trước 1945, không có lý do để họ loan báo sẽ có một quốc gia dựng nên ở miền
Nam sau khi họ đã thắng người Pháp. Những câu 17-20 bất lợi cho họ rõ ràng. Thiết
nghĩ những người Cộng sản nên được “trắng án” trước mối hoài nghi này.
Thành phần thứ nhất là các nho sĩ yêu nước. Các cụ
hoặc cộng tác trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu (trường hợp các cụ
Đặng Tử Kính, Tiểu La Nguyễn Thành …), hoặc phong trào Duy Tân của cụ Phan Châu
Trinh (trường hợp các cụ Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng …). Từ
1907, các cụ bận rộn với Đông Kinh Nghĩa Thục (nhất là các cụ Lương Văn Can,
Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Dương Bá Trạc …).
Chăm lo sáng tác thơ văn yêu nước
để kêu gọi mọi người thức tỉnh cùng thực hiện “duy tân,” các cụ không có lý do
mất khá nhiều thời giờ làm ra cùng tìm cách phổ biến một bài thơ đầy tính cách
huyền bí, không ích lợi thực tiễn ngay lúc đó như bài thơ này. Nếu muốn dùng sấm
ký để vận động quần chúng, sấm ký ấy hẳn phải có mục đích chống Pháp (mối quan
tâm chính của các cụ vẫn là cuộc đô hộ của người Pháp). Họ chỉ được nhắc đến
trong vẻn vẹn 10 chữ của bài thơ khá dài này. Chuyện họ bị thua chỉ được nói phớt
qua, xen giữa nhiều chuyện khác với ngụ ý những chuyện khác mới thực sự quan trọng.
Tóm lại, bài thơ này không ở trong mục tiêu sáng tác của các cụ.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh.
Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương.
Theo tín ngưỡng dân gian được ghi lại trong Quảng Cung Linh Từ Phả Ký, Quảng Cung Linh Từ Bi Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục hiện được
lưu giữ tại nhiều đền thờ Liễu Hạnh công chúa ở Nam Định, bà nguyên là một vị
tiên, “con gái thứ hai của Thượng Đế,” xuống trần vì một sơ xuất nhỏ trên thiên
cung (đánh vỡ chén ngọc), vào làm con những gia đình “tu nhân tích đức”(một
hình thức thưởng công của Thượng Đế cho những gia đình này). Bà đã đầu thai và
tái sinh ở Việt Nam ba lần.
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương cõi trần, bà tái
sinh vào đời Lê Trung hưng (thế kỷ 16) ở thôn Vân Cát, xã An Thái, sau đổi tên
thành Tiên Hương (quê hương của tiên), nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Lần
này bà là con một gia đình họ Lê. Bà cũng rất xinh đẹp, có tài văn thơ, thành
hôn với một người họ Trần, sinh một trai, một gái, nhưng hết hạn, “về trời” năm
21 tuổi. Thương cha mẹ, chồng con, bà xin Thượng đế cho trở lại nhân gian để hướng
dẫn, an ủi cha mẹ và chồng. Sau đó bà hiển linh, trao đổi nhiều vế đối xuất sắc
với Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cùng làm một bài thơ liên ngâm với ông cùng
hai người bạn văn của ông. Những thơ và câu đối ấy cho thấy bà rất có văn tài.
Vì lòng chung thủy, bà tái sinh thêm một lần nữa
vào thế kỷ 17 ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa để gặp lại người chồng kiếp trước,
cũng tái sinh. Lần này bà cũng có văn tài, làm thơ hay, sinh được một con trai,
khích lệ chồng trong việc học. Sau người chồng thi đỗ, làm quan trong viện Hàn
lâm. Cuộc sống thế gian của bà lần này chỉ có 18 năm.
Cung mây đã sẵn trời
giương
Non sông sắp đổi một trường
Xuân Thu.
Khi nhắc đến quốc gia dựng nên không được lâu ở miền
Nam, bà có giọng bực bội, trách móc:
Chân nhân đâu phải là
phường thầy tăng.
Sau khi đất nước đã thống nhất năm 1975, bà đổi
sang giọng tha thiết khi cảnh báo mọi người: chưa hết “Xuân Thu” đâu:
Bao giờ trổ ngọn thử ly
Ai ơi nhớ lấy sấm ky kẻo
lầm.
Quan trọng nhất là khi mách cho biết “thư sinh” sẽ
còn phải trực diện với “thất phu” (hay “vũ phu”), bà chuyển sang ngôn từ chủ
quan (dùng tiếng “ta”) với giọng mạnh mẽ và dứt khoát:
Vân lôi ta chấp mấy
anh Thủy Hoàng.
Tiếng “ta” ở đây cho thấy bà tỏ tinh thần đồng cảm,
tự nhận ở cùng phía với những người ôm hoài bão “vân lôi,” và thách thức, khinh
miệt “mấy anh Thủy Hoàng.”
Như đã trình bày trên, bài thơ “giáng bút” của Liễu
Hạnh công chúa là một tác phẩm vô cùng đặc biệt, đáng được chú ý cùng tìm hiểu
kỹ hơn. Có cơ duyên được nghe một số câu của bài này lần đầu tiên năm 1944 ở tuổi
lên 8, được biết toàn bài (cùng bắt đầu băn khoăn, day dứt) năm Giáp Ngọ 1954 ở
tuổi 18, người viết những dòng này có hoàn cảnh thao thức về ý nghĩa của bài
thơ ấy đã được một chu kỳ hoa giáp vừa đúng 60 năm. Nhân những chuyện xảy ra gần
đây bên Ukraine với nhiều chi tiết đáng lưu ý, có phần nào phù hợp với hoàn cảnh
Việt Nam, nên xin theo lời khuyên của một số thân hữu, chép lại cách hiểu của
mình để trình tới các bậc cao kiến cùng những bậc có lòng với đất nước. Xin
thành kính góp lời nguyện cầu, mong vận nước sớm thay đổi theo chiều hướng tốt
đẹp hơn, thoát tình trạng “Xuân Thu,” để thế hệ của những Phạm Chí Dũng, Huỳnh
Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Lân Thắng … cùng các bạn của họ, những bậc
có hoài bão “vân lôi” được Liễu Hạnh công chúa dự báo sự xuất hiện từ trên 100
năm trước, có thể sớm góp tay xây lại tương lai cho Việt Nam.
Trần
Từ Mai
(Tháng 3 năm 2014)
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching