Hoa Kỳ và Nga
đang rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh Mới?
·
·
·
Tin liên hệ
CỠ CHỮ
Andre DeNesnera
16.04.2014
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nga đã xuống tới mức xấu nhất kể từ khi
Moscow sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine. Nhiều nhà phân tích tự hỏi liệu hai
phía có đang trở lại một cuộc chiến tranh lạnh mới?
Cuộc Chiến tranh Lạnh “thứ nhất" đã kéo dài trong khoảng từ lúc Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt năm 1945 tới khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991.
Ông Charles Kupchan làm việc tại trường Đại học Georgetown nói rằng, Chiến tranh Lạnh là một cuộc tranh đua giữa khối phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo và khối phương Đông do Liên Xô lãnh đạo.
“Cuộc Chiến tranh Lạnh được xác định bởi sự tranh đua về ý thức hệ, một hệ thống cộng sản đối đầu với một hệ thống tư bản, một hệ thống độc đoán đối nghịch với một hệ thống dân chủ,” theo lời ông Kupchan. Ông nói rằng, “Và nó cũng được xác định bởi sự đối nghịch địa chính trị truyền thống, về sự thống trị của cả hai khối liên quan tới trung tâm công nghiệp quân sự cũng như những nước ủy nhiệm trong thế giới đang phát triển.”
Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, những hồi ức về cuộc Chiến tranh Lạnh đã phai nhạt. Nhưng giờ đây lại có người nói tới một cuộc Chiến tranh Lạnh mới sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào Nga.
Tổng thống Obama nói không có Chiến tranh Lạnh
Trong một bài diễn văn mới đây tại Brussels hôm 26 tháng Ba, Tổng thống Barack Obama bác bỏ ý niệm về một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Ông nói, “Đây không phải là một cuộc Chiến tranh Lạnh khác mà chúng ta can dự vào. Rốt cuộc thì, không giống như Liên Xô, Nga không lãnh đạo một khối quốc gia nào cả, và cũng không có ý thức hệ nào cả.”
Tổng thống Obama cũng đã mô tả Nga như một "cường quốc cấp vùng đang đe dọa tới một số nước láng giềng kế cận – không phải vì thế mạnh mà là vì thế yếu.”
Ông Charles Kupchan đồng ý như vậy và nói rằng Nga không có địa vị của một cường quốc như trước đây họ đã từng có.
Ông Kupchan nói rằng, “Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Nga có hàng triệu binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Họ có một hải quân tầm vóc thế giới. Họ có các nước ủy nhiệm trên khắp thế giới. Đó không phải là một nước Nga như chúng ta có hiện nay. Nước Nga ngày nay có khoảng 750-800,000 binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Hải quân của họ là cái bóng buồn bã của những gì trước đây họ đã từng có. Nga có rất ít đồng minh trên thế giới và chính vì lý do đó, tôi nghĩ rằng một sự trở lại cuộc Chiến tranh Lạnh không thể có được - Nga không có những gì họ cần."
Các chuyên gia nói rằng hai phía đang rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh
Nhưng ông Robert Legvold, Giáo sư Danh dự tại Trường Đại Học Columbia có một quan điểm khác.
“Tôi tin rằng chúng ta đang ở trong một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Đó không phải là quan điểm của đa số mọi người. Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người còn chần chừ khi nghĩ tới việc là chúng ta có thể lại rơi vào một điều gì đó rộng lớn, phức tạp và nguy hiểm, đặc biệt là với cái bóng của một trận chiến đấu quyết liệt bằng vũ khí hạt nhân như chúng ta đã có trong giai đoạn 50 năm trước đây.”
Ông Legvold nói rằng, một số đặc điểm cơ bản trong quan hệ của Liên Xô với phương Tây trong giai đoạn đó là đúng với quan hệ giữa Nga và Phương Tây ngày nay.
Ông nói rằng, “Trước hết, nếu như trong gần 20 năm qua, quan điểm lập lờ của Mỹ và phương Tây về Nga là Nga không phải bạn cũng chẳng phải thù mà đâu đó ở giữa – và người Nga cũng có cùng cái nhìn như vậy về Mỹ và phương Tây, thì giờ đây quan điểm đó đã biến mất,” ông nói. “Và giờ đây ta thấy hai phe không những coi nhau như đối thủ mà còn nói thẳng ra như vậy trong những bài diễn văn của giới lãnh đạo hay bình luận của giới chuyên gia.”
Quan hệ Hoa Kỳ-Nga ở mức xấu
Ông Legvold nói rằng một dấu hiệu nữa về cuộc Chiến tranh Lạnh là theo quan điểm của ông, các giới chức tại Washington và Moscow dường như đã từ bỏ ý kiến làm việc hướng tới mối quan hệ hợp tác khác biệt căn bản.
Theo ông Legvold, “Những giả định nền móng của việc 'tái khởi động' của chính phủ Obama chẳng hạn. Giờ đây chúng đã biến mất và đã được thay thế bởi ý niệm cho rằng điều chúng ta có thể hy vọng nhất vào lúc này là nhất thời, khá cụ thể, những giao dịch khá hạn chế mà có thể mang tính hợp tác, nhưng không phải là thứ gì đó có thể lên tới mức độ hợp tác, dẫn dắt chúng ta hướng tới sự cộng tác thật sự và bền vững.”
Nhiều chuyên gia tin rằng một quan hệ hợp tác thật sự và bền vững chỉ có thể đạt được với các nhà lãnh đạo mới ở Washington và Moscow.
Cuộc Chiến tranh Lạnh “thứ nhất" đã kéo dài trong khoảng từ lúc Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt năm 1945 tới khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991.
Ông Charles Kupchan làm việc tại trường Đại học Georgetown nói rằng, Chiến tranh Lạnh là một cuộc tranh đua giữa khối phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo và khối phương Đông do Liên Xô lãnh đạo.
“Cuộc Chiến tranh Lạnh được xác định bởi sự tranh đua về ý thức hệ, một hệ thống cộng sản đối đầu với một hệ thống tư bản, một hệ thống độc đoán đối nghịch với một hệ thống dân chủ,” theo lời ông Kupchan. Ông nói rằng, “Và nó cũng được xác định bởi sự đối nghịch địa chính trị truyền thống, về sự thống trị của cả hai khối liên quan tới trung tâm công nghiệp quân sự cũng như những nước ủy nhiệm trong thế giới đang phát triển.”
Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, những hồi ức về cuộc Chiến tranh Lạnh đã phai nhạt. Nhưng giờ đây lại có người nói tới một cuộc Chiến tranh Lạnh mới sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào Nga.
Tổng thống Obama nói không có Chiến tranh Lạnh
Trong một bài diễn văn mới đây tại Brussels hôm 26 tháng Ba, Tổng thống Barack Obama bác bỏ ý niệm về một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Ông nói, “Đây không phải là một cuộc Chiến tranh Lạnh khác mà chúng ta can dự vào. Rốt cuộc thì, không giống như Liên Xô, Nga không lãnh đạo một khối quốc gia nào cả, và cũng không có ý thức hệ nào cả.”
Tổng thống Obama cũng đã mô tả Nga như một "cường quốc cấp vùng đang đe dọa tới một số nước láng giềng kế cận – không phải vì thế mạnh mà là vì thế yếu.”
Ông Charles Kupchan đồng ý như vậy và nói rằng Nga không có địa vị của một cường quốc như trước đây họ đã từng có.
Ông Kupchan nói rằng, “Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Nga có hàng triệu binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Họ có một hải quân tầm vóc thế giới. Họ có các nước ủy nhiệm trên khắp thế giới. Đó không phải là một nước Nga như chúng ta có hiện nay. Nước Nga ngày nay có khoảng 750-800,000 binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Hải quân của họ là cái bóng buồn bã của những gì trước đây họ đã từng có. Nga có rất ít đồng minh trên thế giới và chính vì lý do đó, tôi nghĩ rằng một sự trở lại cuộc Chiến tranh Lạnh không thể có được - Nga không có những gì họ cần."
Các chuyên gia nói rằng hai phía đang rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh
Nhưng ông Robert Legvold, Giáo sư Danh dự tại Trường Đại Học Columbia có một quan điểm khác.
“Tôi tin rằng chúng ta đang ở trong một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Đó không phải là quan điểm của đa số mọi người. Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người còn chần chừ khi nghĩ tới việc là chúng ta có thể lại rơi vào một điều gì đó rộng lớn, phức tạp và nguy hiểm, đặc biệt là với cái bóng của một trận chiến đấu quyết liệt bằng vũ khí hạt nhân như chúng ta đã có trong giai đoạn 50 năm trước đây.”
Ông Legvold nói rằng, một số đặc điểm cơ bản trong quan hệ của Liên Xô với phương Tây trong giai đoạn đó là đúng với quan hệ giữa Nga và Phương Tây ngày nay.
Ông nói rằng, “Trước hết, nếu như trong gần 20 năm qua, quan điểm lập lờ của Mỹ và phương Tây về Nga là Nga không phải bạn cũng chẳng phải thù mà đâu đó ở giữa – và người Nga cũng có cùng cái nhìn như vậy về Mỹ và phương Tây, thì giờ đây quan điểm đó đã biến mất,” ông nói. “Và giờ đây ta thấy hai phe không những coi nhau như đối thủ mà còn nói thẳng ra như vậy trong những bài diễn văn của giới lãnh đạo hay bình luận của giới chuyên gia.”
Quan hệ Hoa Kỳ-Nga ở mức xấu
Ông Legvold nói rằng một dấu hiệu nữa về cuộc Chiến tranh Lạnh là theo quan điểm của ông, các giới chức tại Washington và Moscow dường như đã từ bỏ ý kiến làm việc hướng tới mối quan hệ hợp tác khác biệt căn bản.
Theo ông Legvold, “Những giả định nền móng của việc 'tái khởi động' của chính phủ Obama chẳng hạn. Giờ đây chúng đã biến mất và đã được thay thế bởi ý niệm cho rằng điều chúng ta có thể hy vọng nhất vào lúc này là nhất thời, khá cụ thể, những giao dịch khá hạn chế mà có thể mang tính hợp tác, nhưng không phải là thứ gì đó có thể lên tới mức độ hợp tác, dẫn dắt chúng ta hướng tới sự cộng tác thật sự và bền vững.”
Nhiều chuyên gia tin rằng một quan hệ hợp tác thật sự và bền vững chỉ có thể đạt được với các nhà lãnh đạo mới ở Washington và Moscow.
Năng lượng : Mỹ giúp châu Âu giảm bớt áp lực của Nga ?
Tổng thống Obama và các lãnh đạo Châu Âu José Manuel Barroso,
Herman Van Rompuy. Bruxelles 26/03/2014.
Reuters
Khủng hoảng Ukraina càng
thúc đẩy Bruxelles dựa vào Mỹ để giảm mức độ lệ thuộc vào dầu khí của Nga ? Tại thượng đỉnh Liên Hiệp Châu Âu –Hoa Kỳ
ngày 26/06/2014, tổng thống Obama tuyên bố Washington sẵn sàng giúp đỡ châu Âu giải tỏa bớt áp lực của Matxcơva về vấn đề năng lượng. Nhờ những phương pháp khai thác mới, Mỹ đang trở thành nơi có trữ lượng dầu khí ‘tiềm năng’ nhất thế giới.
Năng lượng là một nhược điểm của châu Âu. Hiện tại Liên Hiệp Châu Âu nhập cảng đến hơn phân nửa năng lượng -chủ yếu là dầu hỏa và khí đốt- để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ cho 28 thành viên
trong khối. Theo thẩm định của Bruxelles nếu giữ nguyên tình trạng như hiện nay, đến năm 2035 Liên Hiệp Châu Âu sẽ lệ thuộc đến 80 % vào năng lượng của các nước ngoài khối.
Trong năm 2013, chỉ một mình nước Nga cung cấp đến 27 % khí đốt cho Liên Hiệp Châu Âu và 70 %
trong số đó phải chung chuyển qua ngả Ukraina. Ngoài khí
đốt, Nga còn là một nguồn cung cấp dầu hỏa và than đá quan
trọng của châu Âu. Chính vì vậy mà Bruxelles đã
không thể mạnh tay trừng phạt Matxcơva sau khi tổng thống Putin thôn tính
Crimée.
Vào lúc châu Âu và Nga đang cơm không lành, canh
không ngọt thì Washington đề nghị bán khí đốt của Mỹ cho châu Âu. Tổng thống Barack Obama
nhân thượng đỉnh Âu Mỹ đã dùng lá bài
năng lượng để vừa thúc đẩy tiến trình thành lập khu vực tự do mậu dịch với Bruxelles, vừa làm đối trọng với ảnh hưởng của Matxcơva trên Lục địa Già. Dự án này được Ngoại trưởng John Kerry và đại diện châu Âu, bà
Catherine Ashton thảo luận thêm vào ngày
02/04/2014 tại Bruxelles.
Câu hỏi đặt ra là liệu khi nào thì khí đốt của Mỹ mới chảy tới châu Âu ?
Washington chấp nhận xuất khẩu đến bao nhiêu triệu mét khối cho Bruxelles
hàng năm và trong thời gian là bao lâu ? Đừng quên rằng Hoa Kỳ luôn coi
các nguồn dự trữ của mình là yếu tố chiến lược để bảo đảm về an ninh năng lượng của bản thân nước Mỹ. Liệu rằng với dầu khí của Mỹ,Liên Hiệp Châu Âu giảm bớt mức độ lệ thuộc vào ông khổng lồ Nga hay không ?
Năng lượng, lá bài mới của Mỹ ?
Từ California, chuyên
gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa lần lượt trả lời các câu hỏi trên nhưng trước hết ông nói qua về tiềm năng rất lớn của dầu hỏa và khí đốt Hoa Kỳ : Mỹ đang trở thành một ông khổng lồ về năng lượng nhờ kỹ thuật khai thác mới.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ mấy chục năm nay, nước Mỹ đã biết nhiều phương pháp khai thác
năng lượng, chủ yếu là dầu thô và khí đốt, ngoài than đá là
một lợi thế có sẵn. Nhưng họ không muốn thử nghiệm công nghệ mới vì quá tốn kém. Khi giá năng
lượng trên thế giới tăng vọt và từ năm 2006, nước Mỹ dồn sức khai triển phương pháp mới và thật sự hoàn thành một cuộc cách mạng về công nghệ làm đảo lộn tất cả.
Kỹ thuật
"fracing" ấy, đọc như
"fracking", gồm có đào sâu xuống các tầng địa chất trầm tích và xoay
ngang để tìm đến mạch năng lượng bao quanh rồi bơm xuống với sức ép cực mạnh một dung dịch nước và hóa chất. Sức ép này mở bung cả dầu thô hay khí đốt bị nhốt trong đá và được hút lên làm năng
lượng. Riêng về khí đốt thiên nhiên, Hoa
Kỳ có công nghệ dùng áp suất mạnh để biến khí thành nước lỏng đựng trong bồn, gọi là LNG, dễ di chuyển qua nơi khác để từ khí lỏng lại trở về trạng thái khí đốt có thể phân phối qua ống dẫn khí.
Kết quả của cách mạng kỹ thuật là Mỹ đã nâng sản lượng khí đốt của mình lên hàng vô
địch với trữ lượng dự báo là hơn 900 ngàn tỷ thước khối, khả dĩ sử dụng cả trăm năm tới. Nhưng hậu quả là số cung gia tăng từ năm 2009 làm giảm giá khí đốt tại Mỹ. Khi ấy, Hoa Kỳ nghĩ tới việc xuất cảng trong điều kiện mà giá khí đốt tại Âu Châu và mọi nơi khác đều đắt hơn.
Trở ngại cho việc xuất cảng gồm có hai phần. Thứ nhất là hạn chế về chính sách vì Mỹ vẫn cấm bán năng lượng ‘ra bên ngoài’ để có an toàn năng lượng ‘bên trong’, lại còn muốn bảo vệ môi sinh nên kiểm soát chặt chẽ việc lập nhà máy chế biến khí lỏng gọi là LNG.
Thứ hai là về kỹ thuật để đưa khí đốt từ Mỹ tới các thị trường khác. Vấn đề kỹ thuật thật ra dễ giải quyết dù tốn kém và mất dăm ba năm mới hoàn thành. Vần đề chính sách mới nan giải vì nhiều ràng buộc chính trị bên trong nước Mỹ, thí dụ như các nhóm lợi ích hay doanh
nghiệp chế biến, muốn hạn chế xuất cảng để mua nguyên liệu rẻ nhờ giảm giá.
Thế rồi khủng hoảng Ukraina và đối sách thiếu thống nhất của Âu Châu trước sức ép của Nga làm dư luận chính trị tại Mỹ thay đổi. Giải phóng khí đốt có thể góp phần giải phóng Châu Âu ra
khỏi vòng kiềm tỏa của năng lượng Nga.
Chúng ta thật ra đang ở giữa cuộc cách mạng nên tình hình
thay đổi và mỗi năm người ta lại thấy tiềm năng của Mỹ thật ra cao hơn mọi dự đoán trước. Mỹ hiện có sản lượng và mức tiêu thụ khí đốt nhiều nhất thế giới, và trong vài năm
tới thì có dư để bán ra ngoài với giá rẻ chỉ bằng một phần ba giá của thiên hạ. Mà dù có xuất cảng thì cũng không
nâng giá nội địa quá mạnh và nếu giá tăng thì càng
khuyến khích các doanh nghiệp khai thác thêm.
Khí đốt lá bài lợi hại mới của Mỹ ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Hệ thống luật lệ Mỹ nhiêu khê vì áp lực của nhiều trung tâm quyền lợi. Thí dụ giới bảo vệ môi sinh đòi hạn chế nhà máy chế biến, doanh nghiệp chế biến muốn có nguyên liệu rẻ nên đòi hạn chế xuất cảng. Một cách cụ thể thì doanh nghiệp Mỹ muốn sản xuất để xuất khẩu phải vượt sáu ải, của Cơ quan Liên bang Kiểm soát Năng lượng, Bộ Năng lượng, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh, Cơ quan Bảo vệ Thú hiếm, Cơ quan Bảo vệ An ninh Hàng hải, Bộ Vận tải, v.v.... Mà muốn bán khí đốt cho một quốc gia chưa ký Hiệp ước Tự do Mậu dịch với Mỹ, trường hợp của vài nước Âu Châu, thì còn
phải có giấy phép riêng của Bộ Năng lượng với lý do là việc xuất cảng này "phù hợp với quyền lợi của công chúng Mỹ."
Ngày nay, nhờ hay vì sự ngang ngược của Tổng thống Vladimir Putin,
chính trường Mỹ đang thay đổi quan niệm, với Lập pháp yêu cầu Hành pháp áp dụng thủ tục khẩn cấp cho xuất cảng khí đốt để vừa bảo vệ Ukraina vừa giải tỏa sức ép của Putin trên các nước Âu Châu.
RFI : Nếu Mỹ thay đổi chính sách thì sẽ bán khí đốt cho Âu Châu dưới hình thức nào và bao giờ thì bán được ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng
ta mường tượng ra hai bước kỹ thuật là, thứ nhất, ép khí thành nước trong nhà máy khí
lỏng để vận chuyển như dầu thô đến các thị trường khác. Rồi từ chất lỏng trở lại thành khí có thể phân phối qua ống dẫn khí ở nơi mua. Khi bán như vậy thì từ đầu ra ở bên Mỹ phải có giấy phép và đầu vào là nơi mua phải có đầu tư để lập nhà máy cải biến khí lỏng ra khí đốt. Việc mua bán bao hàm cả đầu tư tốn kém để lập nhà máy bên kia đại dương và mất từ ba đến năm năm. Do hoàn
cảnh đặc biệt ngày nay, nếu thủ tục cho phép và hoàn
thành có thể ngắn hơn thì cũng mất hai năm.
Thật ra nhiều nước Âu Châu, kể cả Ukraina, có thấy mối nguy của áp lực Nga nên đã đa diện hoá nguồn cung cấp. Thí dụ là Pháp và Hà Lan
lập dự án khí lỏng tại Dunkerque và
Rotterdam với công xuất là 12 tỷ thước khối một năm, sẽ khởi sự hoạt động năm nay.
Còn Ba
Lan có dự án nhỏ hơn tại hải cảng Swinoujscie có
thể hoàn thành năm nay với công xuất năm tỷ thước khối.
Ukraina thì lệ thuộc vào khí đốt của Nga đến 60% của số tiêu thụ là 50 tỷ thước khối một năm. Từ năm 2013 xứ này ký hợp đồng với hai tập đoàn năng lượng là Shell và
Chevron để khai thác khí đốt từ đá phiến của mình, với hy vọng sản xuất được từ năm đến 10 tỷ thước khối.
Song song tổ hợp ExxonMobil của Mỹ cũng đang nghiên cứu việc khai thác khí đốt bên Tây ngạn của Hắc Hải để có thêm từ năm tới 10 tỷ thước khối. Ngay trước mắt, Ukraina dự tính đảo ngược nguồn cung cấp, từ Tây sang Đông thay
vì từ Nga, với ống dẫn khí qua xứ Slovakia. Trong nỗ lực đa năng hóa như vậy của Âu Châu, Hoa Kỳ
có thể đóng góp về kỹ thuật và đầu tư chứ không chỉ qua việc bán khí đốt.
RFI : Nếu Mỹ giúp như vậy thì Liên Hiệp ChâuÂu có thể giảm được mức độ lệ thuộc vào khí đốt của Nga tới chừng nào ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Cho đến nay, ta chưa có giải đáp về mức hiệu quả là giảm bao nhiêu phần trăm vào khí đốt của Nga nhiều lý do, cả tiêu cực lẫn tích cực.
Thứ nhất, vì yếu tố cục bộ, áp lực cản trở xuất cảng vẫn còn mạnh trong Chính quyền Obama. Thứ hai, việc đầu tư vào nhà máy ở nơi mua là Trung Âu
hay Đông Âu thật ra tốn kém và ít lời hơn bán khí cho Đông
Á nên nhiều doanh nghiệp Mỹ còn ngần ngại.
Thứ ba, các nước Âu Châu cũng có
khu vực đá phiến đầy triển vọng, thí dụ như khi Pháp và Hoà
Lan khởi động hai dự án năm nay thì
Pháp hết cần khí đốt của Nga, hai nước có thể bảo đảm yêu cầu cho nước Bỉ và còn dư 22 tỷ thước khối để bán ra ngoài, tức là Âu Châu cũng từ giảm mức lệ thuộc vào khí của Nga.
Thứ tư là ngay tại Âu Châu, nhiều quốc gia cũng e ngại môi sinh ô nhiễm nên chưa mạnh dạn chấp nhận công nghệ gạn đá phiến ra khí đốt, mặc dù vẫn dùng than đá còn
ô nhiễm hơn.
Ngoài ra, chưa nói đến xuất cảng thì Hoa Kỳ vẫn có thể góp sức giải tỏa khi phổ biến kỹ thuật khí đốt cho nhiều quốc gia, từ biển Baltic qua Ba
Lan, Rumani xuống Hắc Hải nếu các nước này cải tổ thuế khóa để tiếp nhận đầu tư của Mỹ. Ngược lại, khi thấy Mỹ ra đòn, Nga có thể phản đòn và xuống giá để duy trì ưu thế cạnh tranh và thế lực chính trị. Khi ấy, ta thấy ra bài toán khác. Giá
khí đốt của Nga thật ra rất đắt vì còn phải chở từ Tây Bá Lợi Á (Sibérie) tới Âu Châu. Và mỗi dự án khí đốt tại Âu Châu làm giảm số mua thí dụ như là 12 tỷ thước khối trong tổng số bán của Nga cho Âu Châu
là 200 tỷ thước khối một năm là có thể làm Nga mất từ 5 đến 10 tỷ đô la.
Sau cùng, dù việc xuất cảng chỉ trở thành thực tế trong hai ba năm tới, việc Mỹ thông báo sẽ cho xuất cảng dầu thô và khí đốt cũng lập tức làm sụt giá trên thị trường quốc tế. Mà giá khí của Nga lại giàng vào giá dầu, nếu dầu thô sụt giá dưới mức 90 đô một thùng là Nga bị hụt ngân sách. Ông
Poutin ngày nay còn hung hăng khi dầu thô còn trên trăm
đồng một thùng, chứ nếu sụt tới 90 đồng là kinh tế và ngân sách Nga bị khủng hoảng như đã bị vào năm 2009.
RFI : Tình hình chung về khí đốt trích xuất từ đá phiến tại Mỹ là thế nào ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong
mươi năm tới, Hoa Kỳ sẽ dẫn đầu thế giới về khí đốt và làm giảm giá năng lượng toàn cầu với lượng xuất cảng ngày càng cao hơn. Biến cố Ukraina sẽ đẩy mạnh chiều hướng ấy. Thứ hai, trong nội địa Hoa Kỳ, công nghệ mới cũng nâng cao hiệu suất tiêu thụ và giảm phí tổn về năng lượng, thí dụ dễ thấy là xe hơi ít hút xăng dầu và dùng khí đốt nhiều hơn, hay người ta dùng người máy tự động nhiều hơn.
Nói về kế toán, trong cơ cấu sản xuất, phí tổn nhiên liệu giảm mạnh khiến doanh nghiệp Mỹ có thế cạnh tranh rất cao và nhu cầu đầu tư ra ngoài để tìm nhân công rẻ sẽ không còn như trước, nên ta sẽ thấy "tư bản hồi hương". Sau cùng,
vì lệ thuộc ít hơn vào năng lượng bên ngoài, như dầu thô Trung Đông,
trong trường kỳ, nước Mỹ sẽ có đối sách khác về an ninh chiến lược. Trong khi ấy, Liên bang Nga vẫn chỉ thuộc loại chậm tiến có võ khí và còn
tùy thuộc quá nhiều vào việc xuất cảng nguyên liệu và năng lượng.
Theo báo cáo gần đây nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế đến năm 2018, Hoa Kỳ
sẽ là nguồn cung cấp đến 1/5 khí đốt cho nhân loại. Đến năm 2025, nhập khẩu dầu thô vào nước Mỹ sẽ giảm xuống chỉ còn 4 triệu thùng/ngày thay vì 10 triệu như hiện nay. Trong chưa đầy một chục năm nữa, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà sản xuất dầu hỏa số 1 trên thế giới đứng trước cả Ar Rập Xê Út và Nga. Dầu hỏa và khí đốt sẽ là hai lá chủ bài cho phép
Washington phác họa lại chính sách đối ngoại và sẽ làm thay đổi cục diện trên bàn cờ quốc tế.
Kinh tế Nga lao đao do
bất ổn Ukraine
Cập nhật: 15:59 GMT - thứ tư, 16 tháng 4, 2014
Nền kinh tế Nga có thể
tăng trưởng ở mức 0% năm nay, Bộ trưởng Tài chính Anton Siluanov thừa nhận.
Các hãng thông tấn Nga trích lời ông Siluanov cảnh báo rằng kinh
tế nước này đang phải đối mặt với “tình thế khó khăn nhất kể từ khủng hoảng
2008.”
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ông Siluanov cho biết 63 tỷ đô la đã được rút khỏi thị trường
Nga chỉ trong ba tháng đầu năm 2014. Việc sát nhập Crimea cũng sẽ khiến chi
tiêu chính phủ tăng lên.
“Tăng trưởng GDP ước tính là rất thấp, chỉ 0.5%. Có lẽ nó còn
xuống đến gần 0%,” bộ trưởng Tài chính Nga nói tại một cuộc họp nội các.
Ông này nói thêm rằng bất ổn địa chính trị, có thể hiểu là việc
Nga can dự vào Ukraine và căng thẳng gia tăng tại miền đông nước này, khiến cho
vốn bị rút với quy mô lớn ra khỏi thị trường.
Theo ông Siluanov, sự thoái vốn này là kết quả của việc một khối
lượng lớn tiền rúp được đổi ra ngoại tệ.
Tăng trưởng trì trệ cũng liên quan đến sự phụ thuộc vào xuất
khẩu năng lượng và nền kinh tế chưa được hiện đại hóa của Nga.
“Việc vốn bị rút ra khỏi thị trường làm giảm đi cơ hội đầu tư và
tạo ra rủi ro cho ngân sách thiếu cân bằng. Lý do chính của hành động thoái vốn
là sự bất ổn về tình hình địa chính trị,” ông Siluanov nói.
‘Khủng hoảng nhân tạo’
"Ở một chừng mực nhất định, những khó khăn của chúng
ta gắn liền với nỗ lực của một số thế lực muốn đẩy chúng ta vào một cuộc khủng
hoảng nhân tạo"
Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev
Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev gần đây nói với cư dân Crimea rằng
Kremlin sẽ tăng lương và tiền hưu trí, cùng với đó là tiền đầu tư cơ sở hạ tầng
sau cuộc sát nhập gây tranh cãi vùng đất này vào Nga hồi tháng trước.
Ông Siluanov cảnh báo ông Medvedev không nên tiêu quá nhiều vào
Crimea, cho là tuyên bố trên được đưa ra mà “không có sự phân tích về nhu cầu
thực sự của Crimea và Sevastopol”.
Ông Medvedev miêu tả cuộc khủng hoảng ở Ukraine là “nhân tạo” và
rằng nó chỉ có một phần trách nhiệm cho nền kinh tế đang gặp khó khăn.
“Chúng ta đương nhiên không thể loại trừ yếu tố chính trị trong
thời điểm hiện nay, “ ông nói.
“Ở một chừng mực nhất định, tôi nhấn mạnh là chỉ ở một chừng mực
nhất định, những khó khăn của chúng ta gắn liền với nỗ lực của một số thế lực
muốn đẩy chúng ta vào một cuộc khủng hoảng nhân tạo.”
Với lực lượng thân Nga đang chiến đóng các tòa nhà công quyền ở
nhiều thành phố miền đông Ukraine, và Kiev dọa dùng vũ lực để tái chiếm, căng
thẳng tiếp tục leo thang trong khu vực.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Jacob Lew gần đây thúc giục các nước đóng
góp nhiều hơn cho gói cứu trợ kinh tế Ukraine.
Putin thắng một thua ba
Ngô Nhân Dụng
Ngày hôm qua, cả Tòa Bạch Ốc lẫn Ðiện Kremlin đều nhanh chóng loan tin Tổng Thống Nga Vladimir Putin đã điện thoại cho Tổng Thống Mỹ Barack Obama và hai bên đồng ý sẽ cho ngoại trưởng hai nước gặp nhau thảo luận chuyện Ukraine.
Ðây là một chuyện bất ngờ, vì gọi điện thoại cho ông Putin rất
khó. Trước ngày dân Crimea đi bỏ phiếu ly khai Ukraine để nhập vào Nga trở lại,
Ngoại Trưởng Mỹ Kerry gặp Ngoại Trưởng Nga Lavrov suốt mấy giờ ở Bruxelles để
can ngăn lần chót. Có lúc bị thúc giục quá, ông Lavrov rút qua phòng khác gọi
cho ông Putin xin ý kiến. Một lát, ông trở lại, cho biết ông không muốn nói
chuyện điện thoại với mình!
Nay ông Putin đích thân gọi cho ông Obama vào buổi tối, trong
lúc ông này đang ở khách sạn Ritz Carlton tại Riyadh, thủ đô Á Rập Saudi, sau
hai giờ dự quốc yến với Quốc Vương Abdullah để xoa dịu cho ông hoàng dầu lửa
bớt giận Mỹ vì đã họp với Iran (theo Hồi Giáo Shi Ai, đối thủ của Saudi) và bỏ
rơi phe nổi dậy ở Syria (cùng phái Sun Ni với Saudi, nhưng quá nhiều cán bộ
al-Qaeda).
Riêng hành động tự ý gọi điện thoại của Putin đã cho thấy Putin muốn
cầu hòa. Ðiện Kremlin cần giữ thể diện cho ông chủ, đã nêu lý do là ông Putin
nêu lý do các nước cần tái lập trật tự ở thủ đô Kiev, trong lúc nhiều người
thuộc một đảng chống Nga ở Ukraine đang biểu tình, đeo mặt nạ, bao vây trụ sở
Quốc Hội ở Kiev, đòi bộ trưởng Nội Vụ từ chức. Ðiện Kremlin nói rằng phe cực
hữu này đang đe dọa thường dân (ý nói dân gốc Nga), đe dọa các cơ quan chính
quyền và cảnh sát ở thủ đô Kiev cũng như các nơi khác.
Ông Putin cũng than
phiền chính phủ Ukraine đang phong tỏa vùng Transnistria, đã ly khai khỏi xứ
Moldova.
Ðây là một cách gỡ thể diện, cho dân Nga khỏi nghĩ là Tổng Thống
Vladimir Putin đang lùi một bước. Khi hai ông Kerry và Lavrov gặp nhau, ít nhất
Nga có hai điều trao đổi: Nga sẽ công nhận chính phủ Ukraine mới, ngược lại
Kiev sẽ hứa bảo vệ an ninh cho người gốc Nga, và để cho Transnistria dễ dàng
nhập cảng hàng hóa từ Nga, trong lúc 1,200 quân Nga trú đóng tại đó cũng đang
cần thêm rượu vodka!
Ngoài ra, những nhượng bộ khác để Mỹ và các nước Châu Âu
không phong tỏa kinh tế Nga nhiều hơn, sẽ được điện Kremlin mô tả là chuyện
phụ!
Ông Putin chắc có ý trao đổi, để tránh một cuộc phong tỏa kinh
tế có thể leo thang từng bước một trong thời gian tới. Ông có thời giờ để kéo
dài cuộc thảo luận giữa hai ngoại trưởng bao lâu cũng được, vì đằng nào ông
cũng đã nắm vùng Crimea trong tay, và đang chuyển quân quanh biên giới Ukraine.
Riêng việc ngưng chuyển quân cũng có thể đưa ra như một lá bài
trao đổi, mà Nga không mất gì cả. Chính phủ Mỹ chắc chắn sẽ đòi hỏi các nước
Châu Âu cũng phải tham dự cuộc đàm phán, để khỏi mắc kế ly gián. Nhưng kết cục,
tình hình có thể êm dịu hơn, về Crimea Nga vẫn coi như ván đã đóng thuyền, còn
các nước khác sẽ không bao giờ công nhận sự kiện đó. Tình trạng đó có thể kéo
dài không biết đến bao giờ.
Vladimir Putin phải mở cuộc tấn công ngoại giao, chắc vì đã thấy
rõ hơn những hậu quả bất ngờ của hành động chiếm Crimea. Thứ nhất, dân Ukraine
và các nước thuộc khối Liên Xô cũ ghê sợ hành động chính phủ Nga, họ đang
nghiêng về phía Tây phương nhiều hơn. Thứ hai, Liên Hiệp Âu Châu (EU) thu hút
được nhiều nước mới ở phía Ðông hơn, sẽ tạo thành một khối lớn có quyền lợi đối
lập ngay bên cạnh Nga.
Thứ ba, ông Putin đã đẩy Âu Châu và Mỹ gần nhau hơn.
Từ năm 2008, khi xua quân vào Georgia, ông Putin muốn ngăn cản
không cho các nước cộng sản cũ đến gần khối EU và NATO. Nhưng bây giờ kết quả
ngược lại. Dân Ukraine thù ghét Nga hơn, và dân các nước khác thì lo ngại phòng
thủ. Dân Ukraine đồng lòng với vị tổng thống lâm thời Arseny Yatseniuk khi ông
nói: “Chúng tôi ít quân hơn, chúng tôi không có bom nguyên tử. Nhưng chúng tôi
có tinh thần của cuộc Cách mạng Ukraine; chúng tôi có lý tưởng tự do! Chúng tôi
sẽ bảo vệ đất nước đến cùng.” Các nước miền Baltic, nơi có rất nhiều người gốc
Nga sống, cũng như Ba Lan đã yêu cầu Mỹ đưa không lực tới biểu diễn để cho dân
chúng yên lòng.
Các nước EU đã cam kết ký một phần thỏa ước về chính trị với
Ukraine, trong khi còn thảo luận về thỏa ước kinh tế. Không những Châu Âu đang
sẵn sàng mở cửa cho hàng hóa của Ukraine, mà còn chuẩn bị ký các thỏa ước
thương mại với hai nước thuộc Liên Xô cũ, Georgia và Moldova. Ðó là những điều
mà ông Putin đã tìm cách ngăn cản từ mấy năm nay.
Qua việc chiếm Crimea, ông Putin đã giúp Mỹ và Âu Châu gần nhau
hơn. Từ khi bất đồng ý kiến về việc Mỹ tấn công Iraq, khối Âu Châu lục địa đã
tách xa Mỹ dần, có lúc chỉ nghĩ đến cạnh tranh hơn là hợp tác. Khi chính phủ
Obama tuyên bố “chuyển trục” về phía Châu Á và Thái Bình Dương, dân Châu Âu
càng thấy họ xa Mỹ. Dân Mỹ cũng chán Châu Âu, coi đó là một thế giới cổ lỗ,
không thân thiện. Bây giờ dân Châu Âu không lo ngại về thế lấn lướt của nước
Mỹ, mà lại lo chính phủ Mỹ bỏ mặc họ muốn làm gì thì làm.
Còn dân Mỹ cũng sẽ
hướng về Châu Âu hơn, như khi cựu Ngoại Trưởng Hillary Clinton so sánh hành
động của Putin tại Crimea không khác gì Hitler đã lấy cớ bảo vệ người dân gốc
Ðức ở các nước Tiệp Khắc, Ba Lan và Romani để khởi đầu các cuộc xâm lăng. Người
Mỹ sẽ nhớ lại năm 1942 họ đã phải đem quân sang Châu Âu để bảo vệ các nguyên lý
tự do dân chủ mà hai lục địa cùng chia sẻ. Ông Obama đã gợi lại kinh nghiệm đó
trong ký ức dân Mỹ khi đến viếng nghĩa trang các tử sĩ Mỹ trong tuần qua khi
đến Bruxelles: “Nếu chúng ta nhắm mắt để cho một nước dùng vũ lực vẽ lại bản đồ
biên giới tức là chúng ta lãng quên những bài học đã được ghi lại trong các
nghĩa trang ở lục địa này.”
Sau biến cố Crimea, các nước Châu Âu bây giờ đã chấp nhận vai
trò lãnh đạo của nước Mỹ, ngay trong một cuộc khủng hoảng ở Châu Âu. Mỹ đã đóng
vai thúc đẩy các nước Châu Âu phải đoàn kết hơn, và khuyến cáo cả dân Anh quốc
đừng nghĩ đến việc tách ra khỏi EU. Cuộc thảo luận Thỏa ước Ðầu tư và Mậu dịch
Xuyên Ðại Tây Dương (TTIP, Transatlantic Trade and Investment Partnership) đã
“giậm chân tại chỗ” từ nhiều năm, bây giờ sẽ được thúc đẩy tiến tới nhanh hơn.
Các chính phủ Châu Âu muốn hạn chế các khoản trao đổi, như chính phủ Pháp muốn
bảo vệ văn hóa, nay sẽ nhượng bộ dễ dàng hơn mà không lo dân chúng phản đối.
Quốc Hội Mỹ cũng nêu lên nhiều trở ngại về hiệp định TTIP vì không tha thiết,
nay thái độ cũng sẽ thay đổi. Một lý do là với TTIP, việc xuất cảng dầu, hơi đốt
của Mỹ sang Châu Âu sẽ dễ dàng hơn. Chính ông Putin đã gây ra biến chuyển tâm
lý này.
Ông Putin còn vô tình giúp cho khối EU bành trướng nhanh hơn tốc
độ họ trông đợi; và giúp khối sử dụng đồng Euro củng cố với các biện pháp “kham
khổ” dễ dàng hơn. Trong 28 nước của Liên Hiệp EU chỉ có 18 nước đồng ý dùng
chung tiền tệ. Nhưng đây là một cuộc kết hợp kinh tế tài chánh bất bình thường.
Mặc dù có chung một ngân hàng trung ương để quyết định chính sách tiền tệ, mỗi
nước vẫn giữ quyền quyết định về chi tiêu và thuế khóa; mà hai thứ đó có khi đi
ngược chiều nhau.
Một biện pháp để giảm bớt mâu thuẫn là các nước cam kết một
số tiêu chuẩn về ngân sách. Hậu quả là một số nước đã chi tiêu quá trớn, vay nợ
cũng quá trớn để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu; trong khi kinh tế trì trệ vì khả
năng sản xuất không tăng lên kịp. Phải đợi đến khi mấy nước “phía Nam” như Hy
Lạp, Tây Ban Nha lâm vào cảnh vỡ nợ, các nước vẫn “tài trợ” họ như nước Ðức mới
có dịp thúc đẩy họ cải tổ cơ cấu, tiết kiệm để cân bằng ngân sách. Trong ba năm
qua, khối sử dụng đồng euro đã bị khủng hoảng, nhiều người lo ngại có thể sẽ
giải tán. Nay ông Putin đã tạo cơ hội cho họ thấy phải nương tựa vào nhau nhiều
hơn, cùng một lúc cơn khủng hoảng cũng đang dần dần chấm dứt.
Bài học mà các nước trong khối Euro, và những nước đang nghĩ đến
việc gia nhập khối này nhận được, là trường hợp Ukraine. Ðể được Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế (IMF) giúp đỡ, Ukraine sẽ phải thi hành chính sách tiết giảm chi tiêu,
cân bằng ngân sách, và cải tổ cơ cấu nền kinh tế, mà di lụy thời cộng sản đến
nay vẫn chưa xóa hết. Có như vậy, Ukraine mới có thể tiến đến việc trao đổi
thương mại tự do với các nước Tây Âu. Sau bài học của Ukraine, các nước sẽ thấy
việc “thắt lưng buộc bụng” trong năm ba năm để cải tổ cơ cấu kinh tế là chuyện
đáng làm!
Hơn nữa, các nước cựu cộng sản khác có thể thấy họ có ngày sẽ
gia nhập sử dụng khối đồng Euro. Trong các nước thuộc Liên Hiệp Âu Châu (EU) có
15 nước với tỷ lệ thất nghiệp trên 9%, thì một nửa là những nước nằm bên cạnh
Nga và Ukraine. Trong 13 nước còn lại, thất nghiệp dưới 9%, chỉ có một nước
Romania nằm ở địa thế như vậy.Việc gia nhập khối đồng Euro khó khăn cho các
nước còn nghèo, vì chính phủ họ sẽ phải tiết giảm chi tiêu, cải tổ cơ cấu; đừng
để lâm vào cảnh như Hy Lạp.
Các nước Bulgaria, Lithuania, Poland, Latvia, Hungary, Romania,
và Cộng Hòa Czech đang chuẩn bị vào khối đồng Euro. Trước đây họ không tha
thiết lắm, nhất là khi thấy chính hối Euro đang gặp khủng hoảng. Nhưng sau khi
chứng kiến ông Putin bắt nạt Ukraine, người dân các nước này sẽ sẵn sàng hy
sinh chịu kham khổ như dân Hy Lạp mới trải qua, để được gia nhập một khối kinh
tế lớn, ngang hàng với nước Nga. Chính phủ Ba Lan mới quyết định nối lại các cuộc
thương thuyết gia nhập khối Euro, sau nhiều năm ngần ngại.
Tóm lại, ông Putin thắng một mặt, thua trên ba mặt. Ông thắng,
vì đã chiếm lại được Crimea, sửa chữa một sai lầm lịch sử khi Krutchev đã gán
vùng này cho Ukraie vào năm 1954. Nhưng ông thua, vì đã giúp cho các đối thủ
của nước Nga đoàn kết với nhau hơn.
Dân các nước cựu Xô Viết và cựu cộng sản
thấy cần nương tựa vào Châu Âu hơn. Khối các nước Châu Âu sẽ bành trướng mạnh
hơn về phía Ðông. Và mối giao thiệp giữa Mỹ với các nước Tây Âu sẽ cải thiện,
vì họ thấy cần lẫn nhau.
Nếu ông Putin muốn tỏ ra hòa hoãn trong những ngày sắp
tới, có thể không phải vì ông ta lo Nga bị phong tỏa kinh tế, mà vì lo cứ đà
này nước Nga sẽ càng ngày càng bị cô lập hơn. Mở lại những cuộc hòa đàm là một
cách “ru ngủ” các đối thủ, để họ thấy tình trạng bớt căng thẳng. Nhưng chắc
người dân các nước Châu Âu, các nước cựu cộng sản, và chính phủ của họ không dễ
ru ngủ. Vì họ cũng biết, “Ðừng nghe những gì ông Putin nói, mà hãy nhìn kỹ
những gì ông ta làm!”
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching