From: huutuongbui
Date: Fri, 18 Apr 2014 15:01:20 +0200
Subject: Đảng cộng sản lừa gạt QĐND như thế nào?
Khi đã
tự nhận là thuộc về "Quân đội Nhân dân" mà không lấy "Nhân
dân" là gốc, không lấy "phục vụ Nhân dân" làm sứ mạng
mà hạn cục mình trong cái "trung với Đảng" thì quả là bỏ gốc mà theo ngọn. Thật là có lỗi vấn nhân dân vô cùng
mà hạn cục mình trong cái "trung với Đảng" thì quả là bỏ gốc mà theo ngọn. Thật là có lỗi vấn nhân dân vô cùng
Nghe
lời lường gạt, đồng hóa Đảng với Nhân dân, với Tổ quốc là mang tội vì
u mê không phân biệt đâu là ngọn, đâu là gốc.
Cái
thiếu sáng suốt này có thể đưa đến họa diệt vong, đưa xã tắc rơi vào
tay´Trung quốc.
Những
kẻ trong QĐND, nếu có lương tri phải nhìn lại và phải nhận trách nhiệm cho
những gì đã qua và gánh lấy trách nhiệm cho ngày mai.
Bùi
Hữu Tường
2014-04-18
13:45 GMT+02:00 hung vu <>:
Đảng cộng sản lừa
gạt QĐND như thế nào?
(Lời buồn cho kẻ chiến thắng 30/04/1975)
Lê Dủ Chân (Danlambao) - Chế độ cộng sản thành công nhất thời nhờ vào sự lừa gạt,
nó được xây dựng trên sự ngu dốt, bưng bít và tồn tại bằng bạo lực. Đối với
cộng sản Việt Nam, câu nói này được thực tế chứng minh bằng lời tâm sự cay đắng
dưới đây của một nữ bộ đội QĐND đã bỏ gần hết cuộc đời của mình để tận trung
với "Bác" và đảng.
"...
khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong
đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của
tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của
miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản
trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác
phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện
thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc
là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản
lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin
tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn
bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe
một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì
nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người
ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới
là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ
man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm
lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” (* )
Kính
thưa quý vị tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ trong QĐND/VN.
Đối
chiếu với lịch sử nước nhà từ ngày có đảng cộng sản đến nay và hiện tình đất
nước sau hơn 70 mươi năm dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, chắc hẳn quý vị đã
thấy được rằng QĐND nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung đã bị Hồ Chí Minh
và đảng cộng sản lừa gạt. Riêng đối với QDND là nạn nhân trực tiếp của âm mưu
lừa gạt này, lý tưởng, công lao của quý vị, xương máu của đồng đội quý vị đổ ra
trong suốt 70 năm qua đã bị lợi dụng một cách tinh vi qua 4 giai đoạn cụ thể
sau:
1- Giai đoạn 1 (1944 - 1954 / Chiến tranh chống Pháp)
Lợi dụng
lòng yêu nước của QĐND để xây dựng chế độ cộng sản tại miền Bắc Việt Nam.
Không ai
có thể chối cãi rằng lý tưởng của tất cả con dân nước Việt trong thời kỳ chống
pháp là giành lại độc lập cho tổ quốc để xây dựng một nước Việt Nam độc lập tự
do dân chủ. Vì mục tiêu cao cả đó mà đa số thanh niên nam nữ yêu nước đã tham
gia cách mạng, đứng vào hàng ngũ QĐND để đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi
của đất nước. Nhưng sau khi cướp được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng
Kim ngày 02 tháng 09 năm 1945, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã đáp lại lý tưởng
của họ bằng việc thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, một nhà nước
cộng sản, độc tài chuyên chế, rập khuôn theo Liên Xô và Trung Quốc để độc quyền
cai trị miền Bắc Việt Nam từ 1945 đến 1975.
Âm mưu
áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đầu, lên cổ quân và dân Việt Nam của Hồ Chí Minh
và đảng cộng sản trong giai đoạn lịch sử này là hành động phản bội lại lý tưởng
cách mạng của những người đã nằm xuống và trắng trợn lừa gạt công lao của những
người còn sống đang phục vụ trong lực lượng QĐND.
Kết quả
của sự lường gạt này là làn sóng di cư vĩ đại của hơn một triệu người từ Bắc
vào Nam sau hiệp định Genève (1954), cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu Nghệ An (1956),
những cuộc thanh trừng đẫm máu trong QĐND liên tục xảy ra dưới nhiều hình thức
như Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại... và
hơn 13 triệu dân miền Bắc Việt Nam đã sống trong nghèo đói, lo sợ, bất an từ
năm 1954 cho đến nhiều thế hệ tiếp nối ngày hôm nay.
Để vấn
đề được sáng tỏ, chúng ta thử đặt câu hỏi nếu Hồ Chí Minh người lãnh đạo phong
trào kháng chiến chống Pháp, không lừa dối nhân dân và quân đội, sau khi thắng
Pháp thành lập một chính phủ tự do dân chủ thật sự tại miền Bắc đúng như lý
tưởng của những người đi kháng chiến thì dân tộc Việt Nam có chịu đau thương,
mất mát, nhục nhã và tổ quốc có bị thu hẹp, lâm nguy như ngày hôm nay hay
không? Chỉ cần nhìn qua các nước có hoàn cảnh tương tự với nước ta như Nam Hàn,
Đài Loan, Nhật, Phi Luật Tân, Singapore chúng ta sẽ có câu trả lời.
2- Giai đoạn 2 (1959 - 1975 / Nội chiến Nam Bắc Việt Nam)
Lợi dụng
lòng yêu nước của QĐND để phát triển chủ nghĩa cộng sản cho Liên Sô và Trung
Quốc theo tinh thần Quốc tế cộng sản.
Theo
Marx, Lenin các đảng cộng sản phải đấu tranh vì sự nghiệp chung của vô sản trên
toàn thế giới. Mâu thuẫn giai cấp là tối cao, mâu thuẫn quốc gia, dân tộc là
thứ yếu. Việc phát triển chủ nghĩa cộng sản trên thế giới được xem là nghĩa vụ
thiêng liêng và bắt buộc của các quốc gia cộng sản, từ đó Lenin thành lập Quốc
Tế Cọng Sản (Communist International) để lãnh đạo các đảng cộng sản trên toàn
thế giới thực hiện chủ trương này. Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận của
cộng sản quốc tế, là đàn em của đảng cộng sản Liên Xô và đảng cộng sản Tàu tất
nhiên những cuộc chiến tranh do họ gây ra không thể đi ngoài mục đích này.
Chính Hồ Chí Minh đã biểu lộ bản chất của những cuộc chiến tranh do ông ta phát
động qua những câu thơ sau: "Tôi dẫn năm châu đến đại đồng" hoặc "Quan
sơn muôn dặm là nhà, bốn phương vô sản đều là anh em" và sau đó
Lê Duẫn, tổng bí thư đảng cộng sản, bí thư quân ủy trung ương QĐND Việt Nam đã
tuyên bố thẳng thừng: "Ta đánh đây là đánh cho Liên xô, đánh cho
Trung Quốc" có nghĩa là đánh vì vô sản toàn thế giới, đánh vì
Quốc Tế Cộng Sản, đánh theo lệnh của Liên Sô và Trung Quốc, hoàn toàn không
phải vì miền Nam cần được giải phóng, vì Việt Nam cần được thống nhất.
Đối
chiếu với thực tế, những gì đảng cộng sản đã thực hiện tại hai miền Nam, Bắc
Việt Nam sau khi cướp được chính quyền tại miền Bắc từ năm 1954 đến 1975 chúng
ta sẽ thấy rỏ âm mưu này:
- Cài
người và chôn vũ khí tại miền Nam trước khi rút quân ra Bắc ngay sau khi hiệp
định Genève được ký kết (1954). Hành động này chứng tỏ đảng cộng sản đã chủ
trương xâm lăng miền Nam ngay từ ngày đầu phân chia đất nước, bất kể xã hội
miền Nam tốt hay xấu người dân miền Nam có muốn được giải phóng hay không.
- Đặt xã
hội miền Bắc Việt Nam bên trong bức màn sắt, hoàn toàn cô lập đối với thế giới
bên ngoài để dể bề tuyên truyền xuyên tạc chế độ và xã hội miền Nam Việt Nam,
gây hận thù giữa hai miền Bắc Nam, chuẩn bị " tâm lý chiến tranh xâm lược"
đối với nhân dân và quân đội miền Bắc.
- Thành
lập mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam 20/12/1960 (Theo mô hình của Mặt Trận
Việt Minh năm 1941) để chuẩn bị cướp chính quyền hợp pháp tại miền Nam Việt
Nam.
- Thành
lập giải phóng quân miền Nam năm 1961 để khủng bố nhân dân miền Nam, phá rối
trị an, phá hoại kinh tế, gây xáo trộn xã hội và bất an chính trị.
- Đưa
quân đội miền Bắc xâm nhập vào miền Nam để phát động chiến tranh, cướp chính
quyền.
- Trong
khoảng thời gian từ 1955 đến 1963 tại miền Nam Việt Nam không có quân Mỹ, từ
1973 đến 04/1975 quân Mỹ không còn tham chiến tại Việt Nam, vậy thì trong những
khoảng thời gian này Mỹ ở đâu và làm gì ở miền Nam để đảng cộng sản chống Mỹ
cứu nước! Nên nhớ rằng đảng cộng sản, kẻ chủ trương và phát động cuộc chiến
tranh xâm lược miền Nam mới chính là tác nhân đưa đến sự có mặt quân đội Mỹ tại
miền Nam Việt Nam (1963 - 1973), bởi vì một lý do đơn giản ai cũng có thể thấy
là: Nếu Việt Nam không có chiến tranh thì sẽ không có quân đội Mỹ, Trung Quốc,
Liên Sô, Úc, Nam Hàn... hiện diện trên đất nước của chúng ta.
- Sự
kiện Việt Nam thống nhất vào ngày 30/04/1975 chỉ là hệ quả của một cuộc chiến
tranh phục vụ cho chủ trương "vô sản toàn thế giới" và lòng tham
quyền lực vô đáy của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo Hà Nội, tuyệt đối không
phải là nguyên nhân và mục đích của cuộc nội chiến phi nghĩa, tương tàn Nam Bắc
mà họ đã gây ra như đã được tuyên truyền từ trước đến nay, bởi vì cuộc cách
mạng vô sản do người cộng sản chủ trương không mang tinh thần quốc gia dân tộc,
mục đích của họ là cướp chính quyền, lý tưởng của họ là vô sản toàn thế giới,
do đó đất nước có bị phân chia hay không người cộng sản vẫn phát động "chiến
tranh nhân dân" để phát triển chủ nghĩa của mình. Nội chiến tại các nước
Lào, Campuchia sát nách chúng ta và các nước tại Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc,
Hungary... là những nước không có nhu cầu thống nhất đất nước đã khẳng định đều
đó.
Tóm lại
các chiêu bài đánh Mỹ cứu nước - Giải phóng Miền Nam - thống nhất đất nước chỉ
là những cái đầu dê được đảng cộng sản trưng ra để che mắt quân đội và nhân dân
miền Bắc Việt Nam trước chủ trương xâm lăng miền Nam đã được tính toán từ trước
của đảng cộng sản Việt Nam và cộng sản quốc tế.
3- Giai đoạn 3 (1978-1989 / Chiến tranh Việt Nam Campuchia và
Việt Nam Trung Quốc)
Xử dụng
QĐND để giải quyết sự xung đột quyền lực giữa các đảng cộng sản Việt Nam,
Campuchia, Trung Quốc và Liên Sô.
Sau
tháng 4 năm 1975 mặc dầu đất nước đã được thống nhất nhưng QĐND Việt Nam vẫn
phải hứng chịu hai cuộc chiến tranh khốc liệt đó là cuộc chiến tranh với
Campuchia từ 1975 đến 1989 và cuộc chiến tranh với Cọng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
từ 17/02 đến 18/03/1979.
Dưới sự
tuyên truyền của đảng cộng sản, QĐND và người dân Việt Nam chỉ biết đây là
những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc chống lại hành động xâm lăng của Khmer đỏ
vào biên giới Tây Nam và của Trung cọng vào biên giới phía Bắc của tổ quốc.
Nhưng lý do tại sao có những cuộc xâm lăng này thì đảng cộng sản cố tình che
giấu để chối bỏ trách nhiệm của mình trước hai thảm họa này của dân tộc.
Trước
hết chúng ta nên nhớ rằng trước tháng 4 năm 1975 đảng cộng sản Campuchia (Khmer
đỏ) đã được đảng cộng sản Việt Nam tận tình giúp đỡ bằng cách cho QĐND Việt Nam
tham chiến bên cạnh quân Khmer đỏ để cướp chính quyền từ tay chính phủ Cọng Hòa
Campuchia do Lon Nol lãnh đạo. Và trong cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam, đảng
cộng sản Trung Hoa là một trong hai nguồn cung cấp tài lực, nhân lực chính cho
đảng cộng sản Việt Nam xâm lăng miền Nam. Trong thế giới cộng sản bọn họ là
đồng chí, là anh em ruột thịt với nhau. Tuy nhiên sau khi cưỡng chiếm được miền
Nam, với tham vọng trở thành một tiểu bá ở Đông Dương, đảng cộng sản Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Lê Duẫn đã ngã hẳn về Liên Sô không còn mặn nồng với Trung
Quốc. Chính lòng tham vọng và sự trở cờ này của đảng cộng sản Việt Nam là
nguyên nhân của hai cuộc chiến tranh Việt Nam / Campuchia và Việt Nam / Trung
quốc sau ngày đất nước thống nhất (30/04/1975). Từ đó chúng ta thấy rằng bản
chất của hai cuộc chiến tranh đó là sự xung đột quyền lực tại bán đảo Đông
Dương giữa các đảng cộng sản Liên Sô, Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia. Ngoài
ra, những lý do khác được các đảng cộng sản tuyên truyền trước nhân dân và quân
đội chỉ là lý cớ để biện minh cho sự phi nghĩa của hai cuộc chiến tranh này.
Điều đáng hận ở đây là ba dân tộc và ba quân đội Việt Nam, Campuchia, Trung
Quốc bị ba đảng cộng sản Việt Nam, Campuchia, Trung Quốc lợi dụng xương máu để
phục vụ cho tham vọng quyền lực của họ.
Kính
thưa quý vị tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ QĐND/VN.
Trong 70
năm qua (1944-2014) đảng cộng sản Việt Nam đã sử dụng QĐND như một công cụ để
bành trướng chủ nghĩa cộng sản và phục vụ cho tham vọng quyền lực của riêng
mình, bất kể đến quyền lợi của quốc gia, dân tộc và xương máu của quý vị.
Sự tráo
trở của đảng cộng sản qua Hội nghị Thành Đô (9/1990), phương châm 16 chữ vàng
tinh thần 4 tốt (11/2000) và sự kiện hơn 60 ngàn quân và dân hy sinh tại biên
giới Việt Trung, 64 quân nhân thuộc binh chủng hải quân hy sinh tại đảo
Gạc-Ma/Trường Sa bị bỏ quên trong 35 năm nay là bài học đớn đau cho QĐND trước
sự phản bội của đảng cộng sản Việt Nam. Tình trạng này nếu còn tiếp diễn QĐND
sẽ trở thành kẻ đồng lõa với đảng cộng sản trong âm mưu Hán hóa dân tộc Việt
Nam, phản bội tổ quốc, phản bội dân tộc và phản bội ngay chính đồng đội của
mình. Tôi tin chắc rằng quý vị cũng như tôi, như tất cả con dân nước Việt không
ai muốn đều đó xảy ra!
QĐND là
của dân hay của đảng? Đó là câu hỏi mà Tổ Quốc và nhân dân Việt Nam đang chờ
quý vị trả lời!
04/18/2014
__________________________________
(*)
Trích từ: Dương Thu Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ
man rợ” - Báo Người Việt.
Kách Mạng lỡ mất
cơ hội giải phóng Oa Sinh Tơn
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Theo ông Lê Hòa vừa viết còm trên Dân Làm Báo, cán
bộ quản giáo của nhà cựu tù cải tạo lão thành đã tiết lộ “Thằng Mỹ nó
cũng khôn đó, nó rút quân về nước trước thời hạn. Nếu không bộ chính trị sẽ
quyết định táo bạo đánh thẳng qua Oa Sinh Tơn”.
Người ta
nói “cơ hội ngàn vàng” là cơ hội Kách Mạng phỏng được hai hòn Miền Nam, tịch
thu rồi thu biệt tích luôn số vàng thuộc ngân khố quốc gia VNCH “chỉ có” 16
tấn. Bọn xấu đòi hỏi phải làm sáng tỏ vụ này vì chúng bảo đó là tài sản quốc
gia, nhưng Kách Mạng là vô tổ quốc (“Bác anh hùng, tôi cũng anh khùng. Bác
đưa đất nước qua nô lệ, tôi dọa năm châu sẽ đại đồng”) nên 16 tận vàng ấy
khi còn trong ngân khố Ngụy là của chung nhân dân Miền Nam, nhưng đã vào tay
Kách Mạng là của riêng các cụ có công đầu với... Kách Mạng.
“Chỉ có
16 tấn vàng”! Vì con số sẽ hoành tráng hơn gấp bội, nếu như Kách Mạng giải
phóng được Oa Sinh Tơn. So với kho vàng Mỹ, số vàng 16 tấn “thằng” Thiệu
để lại chỉ là “đồ ẻ rót”, xem như đống kít Thiệu ịn mót trước khi lên máy bay
tẩu sang Đài Loan mà các đồng chí Kách Mạng lão thành đã chia nhau ngốn sạch
(Nay có ai nhắc tới thì các vị chối bai bải, cứ tỉnh bơ phớt lờ đi lời xác nhận
của người giao vàng là ông Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng Đặc trách về Kinh tế -
Tài chính, cứ một hai đổ tội cho Tổng thống Ngụy đã mang đi). Thành thử nói cho
chuẩn xác, đây là cơ hội không phải ngàn vàng, nhưng là cơ hội tỷ vàng.
Cứ tưởng
tượng Tổng thống Mỹ lúc đó là Dương Văn Pho (Gerald Ford) ra lệnh cho quân Mỹ
buông súng đầu hàng Kách Mạng. Rút kinh nghiệm, Kách Mạng sẽ không cho xe tăng
húc cổng tòa Nhà Trắng như đã húc vào dinh Độc Lập, hang ổ cuối cùng của bè lũ
Ngụy Quyền lúc ấy chỉ có hàm răng sún của hàng tướng Dương Văn Minh, nhưng phen
này phải ưu tiên nhắm cổng kho vàng Mỹ mà xông tới.
Chiến
thắng này sẽ vinh quang gấp bội “đại thắng mùa xuân” 1975. Ngày 30/4/75 kho
vàng VNCH chỉ còn một người để “Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, phó thủ
tướng đặc trách về kinh tế - tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các
ông” (1).
Xông vào
kho vàng của đế quốc Mỹ ở Fort Knox, không phải là chuyện dễ như vào kho bạc
Sài Gòn. Giặc Mỹ đã “thiết kế để có thể chống chọi được bất kỳ mọi dạng
tấn công, luôn được bảo vệ bởi 30.000 binh lính, xe tăng, xe bọc thép, máy bay
chiến đấu và pháo thường trực; Radar mặt đất rà soát toàn bộ khu vực nơi kho
vàng Fort Knox tọa lạc. Đây cũng là loại radar dùng cho máy bay chiến đấu không
người lái Predator của quân đội Mỹ. Hàng rào điện chằng chịt trên mặt đất thách
đố mọi nỗ lực xâm nhập. Vòng ngoài của hầm vàng được cho là được bao quanh bởi
hàng loạt súng máy kích hỏa bằng tia laser”.
“Nếu một
ai đó đã xuất sắc vượt qua tất cả hàng rào an ninh bên ngoài của Fort Knox, họ
sẽ ngay lập tức đối mặt với lực lượng cảnh sát của cơ quan in tiền Mỹ US Mint
trấn yểm bên trong”.
Thế
nhưng, mặc dù Tổng Tư Lệnh Quân Đội Mỹ Dương Văn Pho (Ford) đã ra lệnh buông
súng để hòa hợp hòa giải với Kách Mạng, trong số 30.000 quân Mỹ ấy thế nào cũng
có những tên, và biết đâu không chừng nguyên cả lực lượng bảo vệ kho vàng, như
các đơn vị Ngụy quân ở Căn Cứ Nước Trong Long Thành mà Đại tướng Văn Tiến Dũng
đã lên án trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” ngoan cố chống lại đến cùng bánh xe
lịch sử của Kách Mạng.
Thêm vào
đó, “bãi cỏ dẫn tới hầm chứa vàng được cài đầy mìn, và cánh cửa hầm
vàng nặng hơn 20 tấn, không một cá nhân nào biết mật mã để mở cánh cửa này”,
Gặp tình huống này, các chiến sĩ Kách mạng trên Tăng T.54 chỉ có ngồi đó mà
nhìn, giỏi lắm là mếu máo hát “bác cùng chúng cháu hành quân”.
Oánh giá
như vậy là sai, vì Kách Mạng không giống ai. Kách mạng là phi thường, tuy nhận
mình là CS vô thần, nhưng lại rất thần thánh (“cuộc chiến tranh thần thánh”,
bác Hồ được Kách Mạng phong chức thần hoàng làng; chú Giáp không phải chết là
hết như chó chết hết chuyện, mà là “về trời”, “người là thánh dưới đất
thánh trên trời”...) Kách Mạng có thể “treo nước trên ngọn cây”, “nghiêng
sông đổ nước ra đồng”, “mất mùa là tại thiên tai, được mùa là tại đảng ta thiên
tài”... Nói một cách khác, “ông” Cu ba râu xồm hay nô he (no hair) có
thể bất lực, nhưng Kách Mạng không bất lực bao giờ. Sông có thể cạn núi có thể
mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
Lật lại
lịch sử Thế Chiến II, quân Mỹ và Đồng Minh giải phóng xong Châu Âu khỏi Phát
Xít Đức là về lại Mỹ. Chúng chẳng những đã dại dột không biết “vào vơ
vét về” một cái gì, ngược lại, sau đó còn viện trợ để các quốc gia này
xây dựng lại đất nước họ bằng Kế hoạch Marshall. Đúng là đế quốc bóc lột ngu
đần, giải phóng cái con đờ ách gì mà không giống Kách Mạng giải phóng đồng bào
Miền nam ruột thịt chút nào, thay vì kế hoạch Marshall nhiêu khê, Kách Mạng có
kế hoạch 4V rất đơn giản.
May mà
thằng Mỹ khôn hồn rút sớm, Kách Mạng lỡ mất cơ hội giải phóng Oa Sinh Tơn. Không
thì Đế quốc Mỹ chết với chúng ông. Không phải chỉ có 16 tấn vàng, mà ông vơ cả
hàng tỷ tấn. Nhất là con cháu Kách Mạng khỏi cần du học Mỹ rồi kết hôn giả để ở
lại Mỹ như hiện hành; Kách Mạng sẽ bắt gọn dân Mỹ đi kinh tế mới và di dân cả
nước VN anh hùng sang Mỹ, tịch thu nhà cửa, thứ ở thứ bán không xuể.
Đời đời
đả đảo và căm thù đế quốc Mỹ rút sớm khiến Kách Mạng lỡ mất cơ hội phỏng hai
hòn thật to của bọn đế quốc.
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching