Họp báo Dự Luật HR 4254 Chế Tài CSVN Vi Phạm Nhân Quyền
Hảy Chống VC thay vì chống người chống cộng-HQB
Giám Sát Viên Janet Nguyễn
và Dân Biểu Liên Bang Ed Royce (Cộng Hòa-Địa Hạt 39), chủ tịch Ủy Ban Ngoại
Giao Hạ Viện Hoa Kỳ, họp
báo lúc 3 giờ chiều Thứ Sáu tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa và Báo Chí (phía trong nhà
hàng Zen), Westminster, để chính thức giới thiệu Dự luật HR 4254, dự luật có
tác dụng chế tài giới chức cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền và xin mọi
người Việt ký vào thỉnh nguyện thư để gây áp lực ủng hộ.
|
GSV.
Janet Nguyễn (trái) và Dân Biểu Liên Bang Ed Royce tại buổi họp báo về Dự
Luật HR 4254. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)
|
“Tôi rất mừng vì dự
luật này sau hơn một năm làm việc, Dân Biểu Ed Royce giới thiệu trước Hạ Viện
Hoa Kỳ hôm 14 Tháng Ba và rất hy vọng được các dân biểu ủng hộ,” Giám Sát Viên
Janet Nguyễn, mở đầu cuộc họp báo.
“Chúng tôi trân
trọng thông báo đến cộng đồng, Dự Luật HR 4254 là kết quả các nỗ lực của hai
văn phòng chúng tôi, nhằm trừng phạt những thành phần có hành động vi phạm nhân
quyền. Vấn đề hôm nay không phải chỉ cá nhân tôi quan tâm mà là vấn đề của cộng
đồng, của cả đất nước Việt Nam,” vị giám sát Địa Hạt 1 nói thêm.
Tiếp lời GSV Janet
Nguyễn, Dân Biểu Ed Royce thu hút người tham dự khi ông kể đến trường hợp ông
Magnitsky, một luật sư người Nga chết trong tù năm 2009 vì điều tra hồ sơ gian
lận thuế của một nhân vật chính quyền. Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành Đạo Luật
Magnitsky Act năm 2012 nhằm trừng phạt viên chức Nga trách nhiệm đến cái chết
của luật sư này.
“Từ ý kiến của
Janet, chúng tôi nhận ra được cách trừng phạt những viên chức cộng sản Việt Nam
vi phạm nhân quyền. Họ cũng muốn đi du lịch và gởi con cháu họ du học tại Hoa
Kỳ. Muốn thế họ phải ngừng bắt giữ, hành hạ những nhà tranh đấu cho dân chủ,
cho tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Với dự luật này, họ sẽ bị chế tài về tài
sản, không được cấp chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ!” vị dân biểu quen thuộc với
cộng đồng Việt Nam bị ngắt lời bởi những tràng pháo tay của người tham dự.
Ông quay qua chào
bà Trần Thị Minh Ngọc, thân mẫu của nhà tranh đấu Đỗ Thị Minh Hạnh, ngồi trong
hàng ghế của những người tham dự, trước khi ông nói thêm: “Sự kiện áp lực chế
tài bằng tài sản, bằng tiền kinh doanh từng xảy ra ở miến Điện, ở Ba Lan từ lâu
rồi. Việt Nam mới đây cầm tù 61 nhà tranh đấu chỉ vì họ muốn nói lên quan điểm
của mình, chỉ vì họ muốn có tự do tôn giáo và muốn có nhân quyền. Hãy đòi hỏi
cho một nước Việt Nam có tự do, dân chủ và nhân quyền!”
DB Ed Royce trình bày đại cương Dự Luật HR 4254. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)
GSV. Janet Nguyễn
khẳng định: “Không chỉ thông báo cho cộng đồng người Việt tị nạn mỗi khi có
phái đoàn cộng sản Việt Nam đi qua thành phố Westminster, Garden Grove hay
Santa Ana như những nghị quyết trong quá khứ, Dự Luật HR4254 nếu được thông
qua, các viên chức cộng sản Việt Nam sẽ bị cấm tới Hoa Kỳ. Đơn giản chỉ có thế
thôi!”
Bà kêu gọi mọi
người Việt khắp nơi trên thế giới ký vào thỉnh nguyện thư ủng hộ Dự Luật HR
4254.
“Hãy vào trang mạng www.hr4254.com để ký
tên vào thỉnh nguyện thư có tên ‘Không Dung Thứ Vi Phạm Nhân Quyền’ để cùng
nhau tạo áp lực và tôi sẽ trình thỉnh nguyện thư này trước Quốc Hội Hoa Kỳ!”
GSV. Janet Nguyễn nói.
Trong phần trao đổi
ý kiến và giải đáp thắc mắc, Dân Biểu Ed Royce trả lời câu hỏi về xác suất
thành công của dự luật này. Ông cho biết rất nhiều sẽ được thông qua. Ông cũng
hứa tổ chức các cuộc họp vận động và mời GSV. Janet Nguyễn đến điều trần.
“Không phải chỉ có
người Việt Nam lên tiếng đòi chế tài những ai vi phạm nhân quyền, mà còn có các
tổ chức phi chính phủ (NGO), các cộng đồng khác cũng có nhu cầu này,” vị dân
biểu nói.
Nghị Viên Dina
Nguyễn, phó thị trưởng Garden Grove, đề nghị biện pháp chế tài luôn cả thân
nhân của những người vi phạm nhân quyền. Dân Biểu Ed Royce ghi nhận ý kiến này.
Nhân dịp này, bà
Trần Thị Ngọc Minh cho biết lúc nào bà cũng sẵn sàng yểm trợ dự luật này.
Thành phần tham dự
gồm những khuôn mặt đấu tranh quen thuộc trong cộng đồng và một số dân cử gốc
Việt. Ông Trần Đình Thức điều khiển buổi họp báo và ông Hòa Nguyễn thông dịch
phần tiếng Việt.
Linh
Nguyễn/Người
Việt
Dư luật do Gíam Sát
Viên Janet Nguyễn đề nghị cùng với DBLB Ed Royce.
Ngày hôm qua Hội Đồng Giám Sát Quận Hat Orange California (Board of Supervisors của Orange County) đã bỏ phiếu ủng hộ dự luật này. Chúng ta cần vận động các Dân Biểu Liên Bang ở địa phương ủng hộ đề dự luật đưọc thông qua tại Hạ Viện sau đó sẽ chuyển qua Thượng Viện.
Chính Trị Trong Thế Kỷ 21
Theo dõi các biến
động tại Ukraine trong mấy tuần qua, tôi nghĩ một trong những bài học đầu tiên
cần được rút ra là tính chất phức tạp trong sinh hoạt chính trị đương đại.
Liên quan đến Ukraine, sự phức tạp ấy có
hai khía cạnh:
Một, quan hệ bên trong bản thân Ukraine với
những sự khác biệt về phương diện chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, chính
trị, tôn giáo, địa lý; và hai, quan hệ quốc tế liên quan đến việc hành xử quyền
lực tại Ukraine. Trong bài này, tôi chỉ xin tập trung vào khía cạnh thứ hai.
Cứ
tưởng tượng một sự kiện tương tự như vụ Nga lấn chiếm Crimea của Ukraine xảy ra
trước năm 1990, tức trong thời Chiến tranh lạnh, phản ứng của Mỹ và châu Âu sẽ
ra sao?
Câu trả lời rất dễ thấy: Chả làm được gì cả.
Câu trả lời rất dễ thấy: Chả làm được gì cả.
Ví
dụ, năm 1956, hàng ngàn dân chúng, đặc biệt là giới sinh viên và trí thức, biểu
tình trên các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính sách của chính phủ
Hungary. Một số sinh viên bị bắn chết.
Làn sóng công phẫn trào lên, dân chúng
khắp nơi lại ào ào xuống đường biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn quân qua
biên giới Hungary để trấn áp những người biểu tình, giúp chính phủ cộng sản độc
tài tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary bị giết chết.
Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị nạn.
Trước biến cố ấy, Mỹ làm
được gì? Tổng thống Dwight Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là tố cáo
những hành động trấn áp dã man của Liên Xô trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
Một
ví dụ khác: Năm 1968, ở Tiệp Khắc lại xuất hiện một biến cố lớn được gọi là Mùa
xuân Prague khiAlexander Dubček được bầu làm Tổng bí thư đảng Cộng sản Tiệp.
Dubček muốn tiến hành một số cải cách theo hướng dân chủ hóa.
Những cải cách ấy
bị Liên Xô xem là xét lại, thậm chí, phản cách mạng, do đó, họ xua hơn 200.000
quân và hơn 2000 xe tăng xâm chiếm Tiệp khiến khoảng 300.000 người dân phải
chạy ra nước ngoài tị nạn. Trước sự xâm lược ấy, Tổng thống Lyndon Johnson cũng
không làm được gì khác ngoài những lời lên án gay gắt trên diễn đàn Liên Hiệp
Quốc. Hết.
Các
ví dụ tương tự có thể kéo dài thêm nữa, nhưng trong mọi trường hợp, chúng ta
cũng đều thấy rõ, trước những thái độ gây hấn ngang ngược của Liên Xô, Mỹ và
Tây phương chỉ có một trong hai lựa chọn: hoặc quyết định dùng vũ lực để đánh
nhau hoặc chỉ đánh bằng võ mồm. Trong tình trạng cả hai bên đều có vũ khí hạt
nhân, việc đánh nhau bằng vũ lực là một giải pháp tuyệt vọng vì cả hai đều sẽ
tự hủy. Cuối cùng, tất cả các tổng thống Mỹ, kể cả người được xem là cương
quyết nhất như Ronald Reagan, đành phải chọn biện pháp đánh võ mồm.
Bây
giờ thì khác. Khi Nga tấn công và chiếm đóng bán đảo Crimea của Ukraine, phản
ứng của Mỹ khác hẳn. Vẫn không động binh. Nhưng cũng không phải chỉ đánh bằng
võ mồm. Tổng thống Barack Obama tận dụng một thứ vũ khí mới, thứ vũ khí phi
quân sự (nonmilitary): kinh tế. Có thể nói, từ thời đệ nhị thế chiến đến nay,
trong tổng số 12 tổng thống Mỹ đương đầu với những thử thách xuất phát từ Liên
Xô và sau đó, Nga, Obama là một trong những người đầu tiên sử dụng vũ khí ấy.
Theo
một số nhà bình luận chính trị, chính việc Nga tham gia vào thị trường chứng
khoán thế giới kể từ ngày Liên Xô sụp đổ vừa tạo cơ hội cho Nga phát triển lại
vừa tạo cơ hội để Mỹ phản công. Ngoài thị trường chứng khoán, việc giao dịch thương
mại giữa Nga và Tây phương cũng càng ngày càng phát triển, càng đa dạng hóa, và
đặc biệt, càng phức tạp.
Điều này, thật ra, tạo sức mạnh cho cả hai phía: Nga
và Tây phương. Việc sử dụng sức mạnh ấy để dẫn đến chiến thắng cuối cùng là một
nghệ thuật cần sự khôn ngoan và đặc biệt, sự kiên nhẫn.
Trước
hết, về phía Mỹ, các biện pháp được Mỹ áp dụng để gây sức ép với Nga, bao gồm:
cấm một số người Nga và người Ukraine thân Nga nhập cảnh vào Mỹ; đóng băng tài
khoản của một số giới chức quan trọng trong chính quyền Nga; cấm các công ty Mỹ
và Tây phương nói chung làm ăn với Nga; loại trừ Nga ra khỏi khối Bát Cường
(Group of 8), biến Bát Cường thành Thất Cường (Group of 7) như cũ, v.v…
Chưa
biết trong tương lai các biện pháp ấy có hiệu quả như thế nào, chỉ biết, trước
mắt, trong một ngày, ngày đầu tiên khi Nga mới tràn qua biên giới Crimea, Nga
mất trọn 60 tỉ Mỹ kim khi thị trường chứng khoán giảm đến 12%.
Nhớ,
năm 2008, khi Nga tấn công Georgia, Tổng thống George W. Bush phản ứng tương
đối chừng mực bằng cách gửi các viện trợ nhân đạo đến Georgia, ngưng các việc
giao tiếp quân sự giữa khối NATO và Nga cũng như hoãn lại các hiệp ước về hạt
nhân dân dụng.
Dù vậy, tất cả các biện pháp ấy cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế Nga khiến nó bị suy thoái đến 8% trong hai năm 2008 và 2009. Bây
giờ nếu Tổng thống Obama phản ứng mạnh mẽ và toàn diện hơn, các tác động đến
nền kinh tế của Nga chắc chắn sẽ nghiêm trọng hơn.
Nhưng
liệu nó có nghiêm trọng đủ để Putin phải nghĩ lại và rút quân ra khỏi Crimea?
Không ai có thể trả lời được câu hỏi ấy cả. Nạn nhân đầu tiên của các cuộc cấm
vận (như trường của Cuba và Bắc Hàn từ hơn nửa thế kỷ nay, của Iraq dưới thời
Saddam Hussein và của Iran hiện nay) bao giờ cũng là dân chúng.
Ở các chế độ
dân chủ, sự cùng khốn của dân chúng có thể biến thành sự bất mãn, từ đó, tác
động lên chính trị, làm thay đổi chính phủ hoặc chính sách hoặc cả hai, nhưng
dưới các chế độ độc tài, hầu như chỉ có một mình dân chúng chịu đựng. Trường
hợp của Nga hiện nay không hẳn là dân chủ nhưng cũng không hẳn là độc tài; ở
đó, dân chúng cũng có một số tiếng nói nhất định, ít nhất trong các kỳ bầu cử,
nên không chừng kết quả sẽ khác.
Về
phía Nga, vũ khí phi quân sự của họ cũng lợi hại không kém. Trước hết, Nga cung
cấp khoảng 30% số dầu khí cho Liên Hiệp Âu Châu, trong đó nhiều nhất là Đức
(40%), kế tiếp là Ý (20%) và Pháp (18%).
Chỉ cần Putin nhấc điện thoại ra lệnh,
nguồn cung cấp dầu khí ấy sẽ bị cắt ngay tức khắc. Dĩ nhiên cái giá phải trả
cho quyết định ấy, về phía Nga, sẽ lớn vô cùng.
Nhưng trước mắt, mọi khó khăn
sẽ đổ ập xuống Liên Hiệp Âu Châu: mọi sinh hoạt sẽ bị ngưng trệ, từ đó, rất dễ
dẫn đến các sự khủng hoảng về phương diện xã hội cũng như chính trị.
Ngoài dầu khí, giữa Nga và Châu Âu còn những liện hệ kinh
tế chằng chịt khác. Nga là đối tác thương mại lớn hàng thứ ba của Liên Hiệp Âu
Châu (chỉ sau Mỹ và Trung Quốc) với tổng số hàng hóa trị giá gần 500 tỉ Mỹ kim
mỗi năm (ví dụ năm 2012 là 462 tỉ Mỹ kim).
Nếu cộng thêm việc giao dịch dịch vụ
nữa, trị giá này sẽ lên đến trên 520 tỉ Mỹ kim. Với số hàng hóa và dịch vụ lớn
lao như vậy, số các công ty Âu châu làm ăn tại Nga hoặc số các công ty Nga làm
ăn ngay tại Âu châu sẽ lên rất cao.
Ví dụ cựu Thủ tướng Đức, ông Gerhard
Schroeder hiện đang làm chủ tịch hội đồng chứng khoán của Nord Stream vốn đang
hợp tác với công ty dầu khí Gazprom của Nga và bốn công ty khác, trong đó có hai
của Đức, một của Thụy Điển và một của Pháp.
Nord Stream mới đầu tư trên 10 tỉ
Mỹ kim để xây dựng hai đường ống dẫn gas xuyên qua Baltic Sea. Trong một mạng
lưới kinh tế đa quốc gia như thế, bất cứ quyết định nào cũng sẽ có ảnh hưởng
đến nhiều quốc gia, chứ không riêng gì đối với Nga.
Các ví dụ ở trên cho thấy
sinh hoạt chính trị hiện nay khác hẳn thời chiến tranh lạnh ở nhiều điểm, trong
đó, có điểm này là quan trọng nhất: Trước, các quốc gia có thể độc lập và cô
lập với thế giới bên ngoài; nay, mọi quốc gia, với những mức độ khác nhau, đều
ở thế liên lập (interdependent) với các quốc gia khác. Điều này dẫn đến hệ quả:
các tranh chấp giữa nước này và nước khác không phải chỉ ở bình diện quân sự mà
còn bao gồm nhiều bình diện khác, từ kinh tế đến xã hội.
Có thể
áp dụng các quan sát trên vào mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
Nói đến
tranh chấp giữa hai nước, chúng ta thường có khuynh hướng tập trung vào các
hành động ít nhiều có tính quân sự, chủ yếu ngoài biển khơi hoặc trên hải đảo
mà ít chú ý đến quan hệ kinh tế cũng như xã hội giữa hai nước.
Nếu không khéo
tính toán, khi tranh chấp giữa hai nước bùng nổ, những yếu tố kinh tế và xã hội
ấy có thể bị Trung Quốc sử dụng như những con tin để làm áp lực lên Việt Nam.
TS Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching