Date:
Mon, 14 Apr 2014 21:49:17 -0700
From: tranbadam
Subject: Cái loa Nguyễn Thanh Sơn tuyên truyền ra sao?
From: tranbadam
Subject: Cái loa Nguyễn Thanh Sơn tuyên truyền ra sao?
Thơ con Cóc nghiến răng thấu tới trời
Loa treo cột đèn - hội trường - cầm tay
Tuy khác chỗ nhưng đồng thanh một giọng
Biết rồi khổ lắm nói đến phát điên
Cứu cánh biện minh sách lược cộng sản
Nối dối lập lập lại thành nói thật
Chín điều nói thật lồng một điều dối
Đó, điều chiến lược dành thế thượng phong
Qua phỏng vấn huyênh hoang thành tích xạo
Mặt nạ rơi lòi dao găm bén ngót
Thứ trưởng ngoại giao vọng ngữ vọng ngôn
Mặt mày phèn phẹt tưa như cái mẹt
Đít thớt đầu trầy phàm phu tục tử
Vai u thịt bắp lì lợm mặt mày
Lông nách một nạm chè tàu mội hơi
Đừng nghe cộng nói nhìn kỹ cộng làm
Già làng Từ Đình Trần bá Đàm
Toronto
Date: Sun, 13 Apr 2014 00:17:41
+0200
Subject: Cái loa Nguyễn Thanh Sơn tuyên truyền ra sao?
From: bacninh7
Subject: Cái loa Nguyễn Thanh Sơn tuyên truyền ra sao?
From: bacninh7
Cái loa Nguyễn Thanh Sơn tuyên truyền ra sao?
VRNs (09.4.2014) – Sài Gòn – Thứ trưởng Ngọai
giao Nguyễn Thanh Sơn,, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngòai (UBNVONN) đã chứng minh thêm lần nữa là người có cái lưỡi không thể
nói lời chân thật mà chỉ để gây chia rẽ và đào sâu thêm hận thù dân tộc.
Nhà ngọai giao 57 tuổi
(sinh ngày 26/12/1957 tại Hà Nội) đã lộ rõ “cái tâm” của mình trong cuộc
họp báo ngày 03/04/2014 tại Hà Nội.
Nguyễn Thanh sơn trả lời phỏng vấn báo chí
trong một lần tới Hoa Kỳ
Trước hết, ông Sơn báo
cáo mục đích chuyến công tác liên ngành từ 09-29/3/2014 đã đi qua các nước Hoa
Kỳ, Hàn Quốc và Canada: “Là dịp tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài. Nhằm khích lệ tinh thần yêu nước, truyền thống anh dũng bảo
vệ Tổ quốc của các thế hệ nhân dân và quân đội Việt Nam, đẩy mạnh tuyên truyền,
vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hướng về đất nước, cùng nhân dân
cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc….” (Tạp chí Quê Hương online của
UBNVONN, ngày 03/04/2014)
Dịp này ông Sơn cũng
nói với báo chí rằng : “Đoàn khoảng 70 kiều bào sẽ về tham dự Giỗ tổ Hùng Vương trong
thời gian từ 7/4-14/4/2014 với một số hoạt động chính như Dâng hương đền Hùng
(Phú Thọ), thăm nhà Bác Hồ (Nghệ An), Viếng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thăm
động Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình)… Hoạt động này thể hiện đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam; thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
đối với kiều bào, khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận
không tách rời của dân tộc, là một nguồn lực và cầu nối quốc tế quan trọng của
đất nước; thể hiện sự quan tâm sâu sắc của bà con kiều bào với sự phát triển
của đất nước….” (Tạp chí Quê Hương online )
Tin của Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN ngày 03/04/2014) viết thêm : “Từ 16/4-28/4/2014, Ủy ban phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức đoàn kiều bào ra thăm và tặng quà cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tại Trường Sa. Hoạt động này góp phần khơi dậy một cách mạnh mẽ tình cảm của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với Tổ quốc nói chung và vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc nói riêng. Trong dịp này, Ủy ban cũng sẽ phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Lễ cầu siêu cho anh linh các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh bảo vệ biển đảo quê hương.”
KIỀU BÀO YÊU NƯỚC –
LIỆT SỸ
Nhưng “những người
lính tử trận” nào mới được vinh danh “anh hùng liệt sỹ”, theo quan niệm của ông
Nguyễn Thanh Sơn ? Và con số khỏang 70 “kiều bào” này là ai?
Theo TTXVN thì : “Đa
số là các doanh nhân đang thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam,
đã lớn tuổi, có tư tưởng yêu nước và theo đạo Phật.”
À thì ra vậy ! Những
“kiều bào yêu nước” này là Hội viên của Hiệp hội Doanh nhân
Việt Nam ở Nước ngòai (DNVNONN)” do đảng Cộng sản Việt Nam thành lập
cho nên chuyến đi Trường Sa hay các nơi khác trong dịp này cũng chỉ để làm một
nhiệm vụ “yếu nước”, theo quan niệm của người Cộng sản mà thôi.
Việc này đã được xác
nhận trong bản Điều lệ của Tổ chức như sau :
Điều 2. Tôn chỉ, mục
đích
1. Hiệp hội Doanh nhân
Việt Nam ở nước ngoài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của cộng đồng doanh
nghiệp, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài
nhằm huy động năng lực của cá nhân và tập thể doanh nghiệp vì
lợi ích của doanh nghiệp, doanh nhân, cộng đồng và của đất nước Việt Nam
2. Tạo môi trường
để hợp tác và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, doanh nhân, các
hiệp hội trong và ngoài nước, nhờ đó thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên
các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ, góp phần
vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
3. Liên kết, phối hợp
và hỗ trợ các Hội viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi góp phần vào sự ổn định,
phát triển và thành đạt của các Hội viên trong các hoạt động đầu tư,
sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ tại Việt Nam và
ở nước ngoài.
4. Hiệp hội
đặt trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và có các chi hội, chi nhánh văn phòng đại diện ở trong
và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Nguyên tắc và
phạm vi hoạt động
1. Hiệp hội hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ về tài chính, tuân thủ luật pháp
Việt Nam và Điều lệ Hiệp hội.
2. Hiệp hội có
phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
tại các nước có người Việt Nam sinh sống và làm việc. Hoạt động của
Hiệp hội chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành khác có
liên quan về lĩnh vực hoạt động của Hiệp hội.
3. Hiệp hội
Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài là thành viên tập thể của Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam.
Ngòai “những người thuộc loại cánh tay nối dài” kinh doanh giúp nhà nước nuôi đảng sống lâu như các Doanh nhân, đòan người Việt từ nước ngòai về nước vào dịp đặc biệt này còn có những ai nữa ?
Ông Nguyễn Thanh Sơn
tiết lộ thêm với Báo Tuổi Trẻ trong cuộc phỏng vấn ngày 04/04/2014 : “Chuyến
đi này chúng tôi đã vận động, mời về
một số nhà báo, một số người xưa nay vẫn chống đối rất cực đoan.Cách
đây hơn một tuần, tôi đã đi công tác nước ngoài và vận động, đưa về một số người cực đoan, chống đối quyết liệt để
họ đến với Trường Sa nhằm chứng minh những việc chúng ta đang làm.
Tôi tin rằng những
người này về sẽ tiếp tục chứng kiến để khẳng định sự thật, chân lý mà chúng ta đang thực hiện, để bảo vệ từng
mét nước, từng hòn đảo. Chuyến đi lần này thêm một lần nữa
khẳng định với kiều bào về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, cũng để
khẳng định kiều bào là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc VN, họ
đã và đang đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp bảo vệ biển đảo. Chuyến đi cũng
thêm một lần nữa nhắn nhủ với bà con kiều bào rằng chúng ta đang làm tốt nhiệm vụ thay họ giữ gìn chủ
quyền của Tổ quốc.”
Những người mà
ông Sơn gọi là “nhà báo” hay “xưa nay vẫn chống đối rất cực
đoan” không xa lạ với người Việt ở Mỹ. Họ chỉ là những cá
nhân muốn “xoay chiều bắt gío” để thử thời vận nhưng không đại diện cho ai và
chẳng có chút ảnh hưởng gì trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Những việc
làm “hướng về Hà Nội” của họ đã bị nhiều tổ chức và cá nhân lên án.
Còn chuyện ông Sơn nói
đảng CSVN đang “bảo vệ từng mét nước, từng hòn đảo” là chuyện trống
trơn không thật. Ngay tại Trường Sa, quân lính Trung Cộng đã dựng đồn,
đắp lũy trên 8 Bãi đá ngầm, quan trọng nhất là bãi đá chiến lược Gạc Ma, mất
vào tay Trung Cộng ngày 14/03/1988.
Trung Cộng cũng đã
thiết lập đài khí tượng, đặt đài radar quân sự và dựng cột hải đăng để
hướng dân tầu bè của họ đi tuần dương, tập trận của Hạm đội Nam Hải.
Sau Gạc Ma, đến lượt
đá Vành Khăn (có tranh chấp với Phi Luật Tân) bị lính Trung Cộng chiếm
tháng 02 năm 1995. Quân Việt Nam ở Trường Sa đã không những
“co gìo nằm im” nhìn kẻ cướp vào nhà mà còn bất lực không dám đánh đuổi
ngư dân Trung Cộng đang quây lưới nuôi hải sản tập thể trên vùng
biển Trường Sa.
Lính hải quân Trung
Cộng, ngụy trang trên các tàu tuần tra “Hải giám” vẫn tiếp tục xua đuổi, đàn
áp ngư dân Việt Nam để bảo vệ hàng trăm thuyền đánh cá Trung Cộng được an
tòan và tự do đánh bắt hải sản trong 2 vùng biển Hòang Sa và Trường Sa của Việt
Nam.
Cũng chưa thấy Việt
Nam “cựa quậy” gì trước hành động Trung Cộng trắng trợn vi phạm chủ quyền của
mình thì lại thấy Hà Nội đã vội vàng “hợp tác cùng khai thác dầu khí” trên vịnh
Bắc Bộ với Trung Cộng trong năm nay (2014) và các vùng khác ở Biển Đông
trong tương lai, theo lời Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường, sau chuyến thăm
Việt Nam trong hai ngày 13-15/10/2013.
Tệ hại hơn, nhà nước
Việt Nam chỉ dám nói “quân đội nước ngoài” đã tấn công lính Việt Nam và chiếm
các bãi đá ở Trường Sa và gọi các tầu Trung Cộng có lính võ trang roi
điện và vũ khí là “tầu lạ” khi chúng đàn áp, không chế, đánh đập và cướp
tài sản của ngư dân Việt Nam ở Hòang Sa và Trường Sa.
Nhiều người trong nước
đã thắc mắc không hiểu tại sao Ban Tuyên Giáo của đảng CSVN đã nhu nhược
đến mức phải ra lệnh cấm báo chí không được viết đích danh “lính
Trung Cộng” hay “tầu Trung Cộng”, mặc dù nhiều ngư dân thoát chết đã công
khai tố cáo như thế ?
Vì vậy khi nghe ông
Sơn “tự biên tự chế” ra câu “chúng ta đang làm tốt nhiệm vụ thay họ (người
Việt Nam ở nước ngòai) giữ gìn chủ quyền của Tổ quốc” thì
khó ai có thể tin ông đã nói thật với cái lưỡi của mình, ấy là chưa nói đến chuyện
đảng CSVN đã không dám kiện Bắc Kinh ra Tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân
đã làm vì Trung Cộng vẫn chiếm giữ tòan bộ quần đảo Hòang Sa của Việt Nam
từ ngày 19 tháng 01 năm 1974 !
CHẾT CHO TỔ QUỐC
NÀO ?
Trong cuộc phỏng vấn
của Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Thanh Sơn còn để lộ ra một cái đầu có óc không
bình thường khi ông nói : “Trong chuyến đi lần này, chúng tôi cũng kế thừa
truyền thống đại đoàn kết của các chuyến đi trước là mời đại diện sáu tôn giáo
lớn tham dự, sẽ tổ chức các lễ cầu siêu ở đảo Trường Sa Lớn và trên đường đi
cho những anh hùng liệt sĩ của Quân đội
nhân dân VN đã hi sinh trong quá trình bảo vệ biển đảo. Chúng
ta cũng ghi nhận sự hi sinh của những
người lính VN cộng hòa trong lực lượng hải quân đã bảo vệ Hoàng
Sa năm 1974.”
Tại sao ông Sơn lại
“chia ra hai loại lính” , một bên lính của đảng Cộng sản thì được gọi là “anh
hùng liệt sĩ”, còn bên Việt Nam Cộng hòa thì chỉ được mang tên “những
người lính” khi họ cùng có chung một dòng máu, một tiếng nói và có cùng mầu
da lúc hy sinh mạng sống cho lý tưởng duy nhất là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
?
Khi được Tuổi Trẻ hỏi
: “Việc tổ chức lễ cầu siêu cùng lúc cho các liệt sĩ Quân đội nhân dân VN, quân
nhân VN cộng hòa và các thuyền nhân tử nạn có thể tạo ra những tâm tư khác
nhau, xin ông giải thích rõ ý tưởng và mong muốn của việc này?
Ông Sơn đáp : “Tôi
cho rằng chúng ta là những người chiến
thắng, đã có công thống nhất đất nước sau một thời kỳ dài đấu tranh gian khổ để
chống thực dân và đế quốc. Hoàng Sa bị mất trong khi vẫn còn chính
quyền VN cộng hòa ở miền Nam. Lịch sử để
mất Hoàng Sa chúng ta đã biết quá rõ, đó là thời điểm chúng ta đang phải tập trung
lực lượng để thống nhất đất nước, đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Chúng ta cũng hiểu sự hi sinh, mất mát to lớn của nhân dân hai miền Nam – Bắc. Chính vì vậy sau khi thống nhất đất nước, hội nhập với thế giới, từng bước nâng cao vị thế trên trường quốc tế thì chúng ta cũng không quên một bộ phận rất nhỏ trong số những người VN đang định cư ở nước ngoài còn mang trong lòng mình sự hận thù. Bằng chính sách đại đoàn kết dân tộc, chúng ta chân thành kêu gọi họ hãy trở về để tận mắt chứng kiến những việc chúng ta đang làm, để xây dựng một nước VN đoàn kết, độc lập, tự do, phát triển. Tuyệt đại đa số kiều bào, 90% trong số 4,5 triệu người đang sống ở nước ngoài, đã trở về đất nước để thăm viếng, đầu tư, góp một nguồn lực to lớn cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chúng ta cũng hiểu sự hi sinh, mất mát to lớn của nhân dân hai miền Nam – Bắc. Chính vì vậy sau khi thống nhất đất nước, hội nhập với thế giới, từng bước nâng cao vị thế trên trường quốc tế thì chúng ta cũng không quên một bộ phận rất nhỏ trong số những người VN đang định cư ở nước ngoài còn mang trong lòng mình sự hận thù. Bằng chính sách đại đoàn kết dân tộc, chúng ta chân thành kêu gọi họ hãy trở về để tận mắt chứng kiến những việc chúng ta đang làm, để xây dựng một nước VN đoàn kết, độc lập, tự do, phát triển. Tuyệt đại đa số kiều bào, 90% trong số 4,5 triệu người đang sống ở nước ngoài, đã trở về đất nước để thăm viếng, đầu tư, góp một nguồn lực to lớn cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việc chúng tôi tổ chức
các lễ cầu siêu cho những người đã ngã xuống, trong đó có những binh sĩ
thuộc quân lực VN cộng hòa, họ đã không cầm súng chống lại chúng ta mà đã kiên
quyết chiến đấu bảo vệ từng mét nước, từng hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa đến
cùng, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình của nhân dân. Việc làm này thêm
một lần nữa khẳng định rằng dân tộc VN là một, chủ quyền của VN đối với Hoàng
Sa và Trường Sa là nhất quán và rõ ràng với các bằng chứng lịch sử và pháp lý
không thể chối cãi.”
Có vài vấn đề cần bàn
trong câu nói “chói tai, chủ quan và có hậu ý tồi tệ chỉ gây thêm hận thù dân
tộc ” của Thứ trưởng Cộng sản Nguyễn Thanh Sơn.
Thứ
nhất, Hòang Sa mất vào tay quân xâm lược Trung
Cộng khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thiếu lương thực và vũ khí vì Hoa Kỳ, người
bạn đồng minh cật ruột của nhân dân miền Nam, vì quyền lợi của họ đã không giữ
lời hứa bảo vệ VNCH như Tổng thống Cộng hòa Richard Nixon đã viết trong
thư gửi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi TT Thiệu đồng ý ký Hiệp định Ba
Lê 1973.
Thứ
hai, cùng vào thời điểm mất Hòang Sa thì quân và
dân miền Nam phải đối phó với cuộc chiến xâm lăng, trắng trợn vi phạm hiệp
định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam 1973 của
trên 300.000 quân đội Cộng sản miền Bắc cầm trong tay vũ khí của Liên bang Sô
Viết và Trung Cộng khi ông Sơn mới 18 tuổi !
Thứ
ba, khi Trung Cộng tấn
công Quân VNCH ở Hòang Sa, mặc dù Hạm đội số 7 của Mỹ đang có mặt trong vùng và
được yêu cầu, Hoa Kỳ vẫn không tiếp cứu quân VNCH.
Thứ
bốn, khi quân Trung Cộng chiếm Hòang Sa, đảng và
nhà nước Cộng sản miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, VNDCCH) đã vì mục
đích cần có viện trợ và đường tiếp vận vũ khí của khối Liên Sô qua lãnh thổ
Trung Cộng để chiếm miền Nam bằng mọi giá nên VNDCCH không dám lên tiếng
“phản đối” Trung Cộng.
Bằng chứng này được
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, một chuyên gia về Trung Cộng tiết lộ trong cuộc
phỏng vấn của báo Tuần Việt Nam vào dịp kỷ niệm 40 năm Trung Cộng chiếm Hòang
Sa (19/01/1974) .
Cuộc phỏng vấn được
thực hiện sau khi sử gia Nguyễn Đình Đầu (ở Sài Gòn) đưa ra quan điểm của
ông về biến cố Hòang Sa thì: “Tình đồng chí giữa những người Cộng sản (Việt
Nam và Trung Hoa) lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ”.
Cuộc phỏng vấn này
được tờ báo đăng trong số ra ngày 06-01-2014:“ Có một câu hỏi mà nhiều người
thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng phản đối?
Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban Lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia?
Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt – Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.
Ông Thạch, vốn rất quý
tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn:
“Dy ơi, sao cậu dại
thế! Đất nước đã thống nhất chưa? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc
chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn? (chú thích của Phạm
Trần: Năm 1956,
Hải quân Trung Quốc chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa (nhóm An Vĩnh)
trong đó có đảo Phú Lâm (Woody Island)
và đảo Linh Côn. VNCH làm chủ các đảo phía
Tây và Nam)
Cậu có biết rằng viện
trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi
qua đường nào? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ
cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ…
Thế mà bây giờ, vì cái
chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên
tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn.”
Lúc đó, ông Thạch chỉ
nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông.”
Khi Trung Cộng chiếm
Hòang Sa thì ông Nguyễn Thanh Sơn mới 17 tuổi. Liệu ông Sơn, khi ấy
chắc còn ngồi trên ghế Trung học, có thể nào biết so sánh hơn thiệt
và khác biệt giữa bổn phận bảo vệ “chủ quyền lãnh thổ” và “tham vọng xâm
chiếm VNCH” của các lãnh đạo Lê Duẩn,Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ
Nguyên Giáp ?
Hơn nữa, khi Thủ tướng
Phạm Văn Đồng gửi Công hàm ngày 14/09/1958 cho Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai
nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đào Hòang Sa và Trường Sa thì
ông Sơn chưa tròn 1 tuổi nên chưa thể có đủ trí khôn để hiểu được ý nghĩa của
nhóm chữ “liên tục lịch sử” khi nói về chủ quyền lãnh thổ !
Ngòai ra, ông Sơn cũng
biết trong suốt 40 năm mất trọn Hòang Sa vào tay quân xâm lược Trung Cộng, nhà
nước CSVN chỉ biết “nói không” Hòang Sa-Trường Sa là của Việt Nam mà chưa có
bất cứ hành động nào để lấy lại Hòang Sa hay tống cổ quân Trung Cộng ra khỏi 8
bãi đá ở Trường Sa.
Thậm chí vào ngày
19/01/2014 đúng dịp kỷ niệm 40 năm với 74 chiến sỹ VNCH hy
sinh trong cuộc chiến bảo vệ Hòang Sa (19/01/1975), chính phủ của
ông Sơn đã cho công an đội lốt công nhân bầy trò “cắt đá thi công gỉa vờ”
làm bụi mù và mở loa phóng thanh cực mạnh để phá buổi lễ tưởng niệm của
người dân Hà Nội tại Tượng đài Lý Thái Tổ.
Lúc đó ông Sơn ở đâu
mà không ra đó dâng hương cầu siêu mà 4 tháng sau lại bầy trò mang nhau ra tận
Trường Sa vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương để tụng kinh, truyền hình cho những
người lính VNCH mà theo lời ông, chỉ vì họ là “những binh sĩ thuộc
quân lực VN cộng hòa đã không cầm súng chống lại chúng ta mà đã kiên quyết
chiến đấu bảo vệ từng mét nước, từng hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa đến cùng…”
Nhưng tại sao họ không
được vinh danh là “anh hùng liệt sĩ” như 64 người lính của Quân đội Nhân dân
CSVN đã bỏ mình trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lượng Trung Cộng ở Trường
Sa ngày 14/03/1988 mà chỉ được gọi là “binh sĩ” ?
Ngôn ngữ “kỳ
thị” của ông Nguyễn Thanh Sơn giống hệt như khi ông Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Ban
chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN)
kêu gọi góp tài chính cho chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” trong
đó có dự án xây “đền tưởng niệm 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh
dũng hy sinh trong trận Gạc Ma (huyện đảo Trường Sa, thuộc tỉnh Khánh Hòa)” .
Tại sao lại không dựng
đền tưởng niệm cho 74 chiến sỹ Hải quân VNCH đã hy sinh tại Hòang Sa năm 1974
? Và tại sao mãi đến bây giờ ông Sơn mới thấy “cái lợi chính trị” cho
việc tưởng niệm những người lính VNCH hy sinh ở Hòang Sa là để “thêm
một lần nữa khẳng định rằng dân tộc VN là một, chủ quyền của VN đối với Hoàng
Sa và Trường Sa là nhất quán và rõ ràng với các bằng chứng lịch sử và pháp lý
không thể chối cãi.”
Hành động thiếu lương
thiện khi dùng xương máu của 74 chiến sỹ VNCH vào mục tiêu chính trị cốt để
“làm chứng” cho chủ quyền liên tục của Nhà nước Cộng sản Việt Nam ở Hòang
Sa, sau 40 năm quên lãng liệu có xóa được 2 đọan này trong Công hàm
ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
“Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận
của Trung-quốc.
“Chính phủ nước
Việt-nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi
quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.”
TẠI SAO DÂN RA ĐI ?
TẠI SAO DÂN RA ĐI ?
Cũng trong cuộc phỏng
vấn của báo Tuổi Trẻ ngày 04/04/2014 , khi nói về chuyện cầu siêu ở Trường
Sa,Thứ trường Nguyễn Thanh Sơn còn xuyên tạc có chủ ý xấu về cuộc vượt
biển chạy trốn Cộng sản tìm tự do của nhân dân Việt Nam sau năm 1975.
Ông Sơn nói : “Chúng
ta cũng tưởng nhớ và thương tiếc những người dân VN vô tội đã ra đi và bị chết
trong cuối thập kỷ 1970, đầu thập kỷ 1980. Chúng tôi coi những thuyền nhân tử nạn là những nạn nhân chiến tranh, ra đi vì bị
tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều, bởi khó khăn về đời sống kinh
tế và nhiều nguyên nhân khác, vậy thì hãy cầu siêu để linh hồn họ
được siêu thoát trên vùng biển quê nhà. Qua đó chúng ta cũng mong muốn vùng biển
Đông thật sự là vùng biển hòa bình, hữu nghị, còn chủ quyền của chúng ta thì
chúng ta phải kiên quyết giữ, những khu vực, hòn đảo đang bị chiếm đóng trái
phép tạm thời thì chúng ta sẽ đấu tranh bằng biện pháp hòa bình để đòi lại.”
Qủa thật là khi hàng
chục ngàn người dân, đa số từ miền Nam phải liều mình bỏ nước ra đi
sau cuộc chiếm đóng VNCH của quân đội miền Bắc sau ngày 30 tháng 04 năm 1975
thì ông Nguyễn Thanh Sơn mới vừa đủ tuổi thành niên 18 và đang được nuôi sống
trong môi trường có cha anh “còn say men chiến thắng”. Ông đã không nhìn
ra hậu qủa của một xã hội băng họai, lòng người li tán và nền kinh tế kiệt quệ
suýt đẩy dân tộc đến chỗ suy kiệt sau 10 năm kinh tế bao cấp, giáo
điều, lạc hậu và bảo thủ của nhà nước.
Người thanh niên thuộc
lớp tuổi “qùang khăn đỏ coi đảng lớn hơn cha mẹ mình” như ông Sơn cũng không
hiểu nổi tại sao đảng của mình lại gian dối để đẩy hàng trăm ngàn
quân-cán-chính của chế độ miền Nam vào các trại tù lao động gọi trá hình là
“cải tạo” chỉ cốt để trả thù sau cuộc chiến ?
Và tất nhiên ông Sơn
cũng còn “ngây thơ” khi biết rằng vợ con của những người miền Nam bị bắt
đi tù, có người ngót 20 năm tại những vùng rừng sâu nước độc và nhiều
người đã chết mất xác, đã bị đầy đọa tới những vùng đất “sống một chết
mười” được mang tên mỹ miều là “vùng kinh tế mới” trong đợt đánh tư sản mại bản
do ông Đỗ Mười cầm đầu ở trong Nam từ 1977 ?
Sau này khi lớn lên và
được vào làm nhân viên của nhà nước, chắc ông Sơn phải hiểu câu nói này của Thủ
tướng Võ Văn Kiệt : “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng
đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã
đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở
phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một
sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng
có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ
lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu.” (Trích từ cuộc phỏng vấn
ông của Tuần báo Quốc Tế ngày Thứ hai, 18 Tháng tư 2005, dịp kỷ niệm 30 năm chiến
tranh kết thúc)
Rất tiếc, ông Thứ
trưởng Nguyễn Thanh Sơn, thế hệ cháu chắt của ông Võ Văn Kiệt đã “tiếp tục
làm nó thêm rỉ máu” khi ông gọi hàng chục, nếu không muốn
nói hàng trăm ngàn “thuyền nhân tử nạn” trên đường vượt biển
tìm tự do “là những nạn nhân chiến tranh, ra đi vì bị tuyên truyền, kích
động bởi thông tin một chiều, bởi khó khăn về đời sống kinh tế và nhiều nguyên
nhân khác.”
Nhưng ai đã gây ra chiến
tranh ở trong miền Nam, nếu không phải là người Cộng sản, trong đó có anh em,
dòng họ của ông Sơn ? Và ai đã tuyên truyền lôi kéo họ phải “thập tử nhất sinh”
tìm đường trốn thoát khỏi ngục tù Cộng sản?
Ai đã ô nhiễm vào các
thuyền nhân những “thông tin một chiều” khi họ đã trải nghiệm bằng cuộc sống
bằng chính sách kỳ thị dân tộc, kỳ thị Nam-Bắc, kỳ thị nguồn gốc Tôn giáo, kỳ
thị qua lăng kính lăng mạ “ngụy quân-ngụy quyền” và thứ ngôn ngữ bỉ ổi
coi những người đã bỏ nước ra đi là thành phần “ma cô, đĩ điếm”?
Và sau cùng, hẳn ông
Sơn phải biết ai là thủ phạm của “đời sống kinh tế khó khăn” khiến nhiều người
dân phải bỏ nước ra đi sau ngày 30/04/1975 ở trong Nam khiến Tổng bí thư Trường
Chinh và hai Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh phải vất
vả lắm mới “gột tẩy” được những “cặn bã giáo điều, bảo thủ” trong Bộ Chính trị
để thi hành chủ trương “đổi mới, hội nhập” cứu nguy kinh tế, đưa đất nước
thóat khỏi bờ vực thẳm sau 10 năm phá sản, kiệt quệ (1975-1985) ?
Mặt khác, khi Thứ trưởng
Nguyễn Thanh Sơn tìm cách che đậy trách nhiệm của Nhà nước CSVN trong những
hòan cảnh đau lòng của các thuyền nhân chết chìm, bị hải tặc tấn công, bắt cóc
trên đường vượt đại dương trốn khỏi một quê hương có những kẻ cai trị đã đầy
đọa mình thì ông cũng đã quên luôn cả số tiền ngót 9 tỷ dollars của “Việt kiều”
đã gửi về Việt Nam hàng năm để giúp gia đình, nhưng đồng thời cũng đóng góp vào
nền kinh tế của Quốc gia.
Nhưng điều đó không có
nghĩa như lời tuyên truyền không đúng sự thật khi ông Sơn nói trong cuộc phỏng
vấn ngày 4/4/2014 rằng : “Tuyệt đại đa số kiều bào, 90% trong số 4,5 triệu
người đang sống ở nước ngoài, đã trở về đất nước để thăm viếng, đầu tư, góp một
nguồn lực to lớn cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước.”
Đúng là có nhiều người
đã về Việt Nam thăm thân nhân, nhưng có mấy phần trăm đã “hồi hương” và “đầu
tư” để gọi là “xây dựng đất nước” do đảng Cộng sản cai trị ?
Có thật như ông Sơn
“nói không thành có” ?
TRÍ THỨC VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
Mọi người hãy nghe
Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng thuộc Đại học danh tiếng Kỹ thuật và Thiết kế
RMIT của Úc Đại Lợi giải thích cách nay 4 năm lý do tại sao vẫn có rất ít
trí thức Việt kiều trở về nước phục vụ ?
Ông nói : “ Qua
thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính
sau đây:
- Việt Nam
chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển
kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm
chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì
việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm
việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;
- Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên…) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;
- Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hơp nhất và có lợi nhất cho đất nước;
- Thủ tục giấy
tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;
– Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
– Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
- Tính “địa
phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào
cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều
trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường
khoa học kỹ thuật của mình.
Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010 : “Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”
Tình hình này đã thay
đổi vào năm 2014 chưa ? Ông Sơn hãy can đảm nói cho cả thế giới biết đã có bao
nhiêu trong số trên 300.000 chuyên gia “Việt kiều” mà Việt Nam rất cần có
đã về giúp nước chứ đừng vội khoe như đã có tới 90% trong số 4,5 triệu người
đang sống ở nước ngoài đã về thăm viếng và đầu tư phần nhiều vào hai lĩnh vực
bất động sản và du lịch là những ngành không có nền tảng kinh tế bền vững. -/-
Phạm Trần
(04/014)
--
bacninh
No comments:
Post a Comment
Thanks for watching